Gia đình ông Trịnh Văn Bô hiến 5.000 lượng vàng cho Cách mạng
Vợ chồng ông bà Trịnh Văn Bô đã đóng góp hơn 5.000 lượng vàng cho cách mạng.
|
Ông Bô cùng vợ đặt cửa hiệu buôn vải sợi Phúc Lợi tại ngôi nhà số 48
Hàng Ngang. Tầng hai của hiệu buôn sầm uất này từng là nơi ở của nhiều
cán bộ lãnh đạo cách mạng cấp cao của Việt Nam khi chuyển hoạt động từ
chiến khu về Hà Nội, trong đó có cả Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính nơi đây,
Bác Hồ đã khởi thảo và hoàn thành bản Tuyên Ngôn độc lập.
Thời điểm 1940, ông Bô được xem là một trong những người giàu có bậc
nhất đất Hà Thành, giao thương với cả các bạn hàng ở Đông Dương, sở hữu
một nhà máy dệt và kinh doanh bất động sản.
Là thương nhân giàu có, gia đình ông kinh doanh với triết lý
"Buôn bán 10 đồng thì giữ lại 7, còn lại giúp đỡ người nghèo và làm việc
phúc đức".
Mùa thu năm 1945, sau khi giành chính quyền từ tay phát xít Nhật, Chính
phủ lâm thời mới thành lập gặp nhiều khó khăn về tài chính. Kho bạc
Trung ương đối mặt với khoản nợ ngắn hạn phải thanh toán lên đến 564
triệu đồng, trong khi ngân khố chỉ còn hơn 1,2 triệu đồng Đông Dương, mà
gần một nửa là tiền rách chờ thu đổi.
Trước tình thế quá khó khăn, Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng kiến thành lập
Quỹ Độc Lập và “Tuần lễ vàng” nhằm thu nhận tài chính và hiện vật nhân
dân quyên góp cho Chính phủ. "Tuần lễ vàng" được phát động, gia đình ông
đã ủng hộ tới 5.147 lượng vàng, tương đương 2 triệu đồng Đông Dương cho
Chính phủ. Không những thế, vợ chồng ông Trịnh Văn Bô còn là
thành viên cốt cán trong Ban vận động "Tuần lễ vàng", khích lệ giới công
thương và các tầng lớp nhân dân quyên góp được 20 triệu đồng Đông Dương
và 370 kg vàng.
Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh cụ Trịnh Văn Bô, mừng đại thọ 100 tuổi
của cụ bà Hoàng Thị Minh Hồ (1914 - 2014), Bộ Tài chính đang biên soạn
cuốn sách “Doanh nhân Trịnh Văn Bô và những cống hiến cho nền tài chính
cách mạng Việt Nam” nhằm vinh danh những công lao, đóng góp của gia đình
ông, đồng thời đề xuất UBND thành phố Hà Nội lấy tên cụ Trịnh Văn Bô đặt cho một con đường tại thủ đô.
Bạch Thái Bưởi - ông trùm tàu thuỷ đối đầu Thống soái Bắc Kỳ
Làm ăn với người Pháp, nhưng Bạch Thái Bưởi luôn bênh vực cho người dân bị trị.
|
Bạch Thái Bưởi sinh năm 1874, trong một gia đình nông dân nghèo, họ Đỗ
tại làng An Phúc, tỉnh Hà Đông. Cha mất sớm, ông phải giúp mẹ sinh nhai
bằng nghề bán hàng rong. Khi đó, một nhà phú hào họ Bạch thấy ông
thông minh, lanh lợi, nên nhận làm con nuôi và đổi lại họ Bạch. Nhờ đó,
ông có cơ hội được đi học chữ quốc ngữ, chữ Pháp.
Ban đầu, công việc của ông là làm chân ký lục (nhân viên thư ký) cho
một hãng buôn người Pháp ở phố Tràng Tiền (Hà Nội), sau đó sang làm với
một hãng thầu công chánh. Nhờ đó, Bạch Thái Bưởi đã học được cách tổ
chức, quản lý sản xuất và tiếp xúc với thiết bị, máy móc.
Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, khi người Pháp bắt đầu công cuộc khai
thác thuộc địa, mở mang đường sá, xây dựng cầu cống. Bạch Thái Bưởi tìm
cơ hội trở thành đối tác cung cấp nguyên liệu cho dự án xây dựng tuyến
đường sắt lớn nhất Đông Dương lúc bấy giờ, bắt đầu bằng việc xây cây cầu
dài 3.500 m nối Hà Nội với Gia Lâm.
Sau đó, ông bỏ vốn mua lại một hãng cầm đồ ở Nam Định, rồi mở hiệu cơm
Tây ở Thanh Hóa, hãng rượu ở Thái Bình và làm cả cai thầu thuế chợ từ
miền Bắc đến miền Trung. Nghiệp kinh doanh lẫy lừng nhất cho Bạch Thái
Bưởi bắt đầu vào năm 1909, khi ông thuê lại ba chiếc tàu của một doanh
nghiệp Pháp và mở tuyến giao thông đường biển Nam Định - Hà Nội - Bên
Thủy.
Tháng 4/1916, Bạch Thái Bưởi tuyên bố thành lập Giang hải luân thuyền
Bạch Thái công ty, điều hành 17 tuyến đường thủy từ Hà Nội đến Tuyên
Quang, vươn ra đến tận các nước như Hong Kong, Nhật Bản, Philippines,
Trung Quốc, Singapore...
Năm 1917, Hãng Deschwanden của Pháp bị phá sản, Bạch Thái Bưởi mua lại 6
chiếc tàu khác của hãng này. Ngày 7/9/1919, công ty của Bạch Thái Bưởi
gây tiếng vang lớn khi cho hạ thủy tại Cửa Cấm (Hải Phòng) chiếc tàu
Bình Chuẩn hoàn toàn do người Việt thiết kế, thi công. Cũng chính nhờ
con tàu lớn đầu tiên của Việt Nam này mà Bạch Thái Bưởi được xưng tụng
là “Vua tàu thủy Việt Nam".
Làm ăn với người Pháp, học tập kỹ thuật tân tiến của phương Tây, nhưng
khi đặt tên các con tàu, ông đều lấy từ nguồn lịch sử của dân tộc như:
Lạc Long, Trưng Trắc, Đinh Tiên Hoàng, Lê Lợi, Hàm Nghi… Có lần
lên tiếng bênh vực cho quyền lợi của người dân bị trị, trong Hội nghị
Kinh tế lý tài, ông bị René Robin-Thống soái Bắc kỳ lúc đó - đe dọa:
“Nơi nào có Robin thì không có Bạch Thái Bưởi”, ông đáp lại: “Nước này
còn Bạch Thái Bưởi thì không còn Robin”.
Bạch Thái Bưởi được người đương thời và các thế hệ đi sau đánh giá là
một nhà tư sản dân tộc, một doanh nhân giàu ý chí tự cường, một thương
gia lớn, có tinh thần tự tôn dân tộc, một tâm hồn Việt… Cũng vì thế mà
ông trở thành khuôn mặt nổi tiếng của 30 năm đầu thế kỷ XX.
Nguyễn Sơn Hà - người khước từ mọi quyền lợi để theo cách mạng
Nguyễn Sơn Hà, "ông tổ" của ngành sơn Việt Nam.
|
Ông Nguyễn Sơn Hà (1894 - 1980) được biết đến như là người khai sinh
nghề sản xuất sơn dầu ở Việt Nam và là một trong những doanh nhân hàng
đầu của Việt Nam thời Pháp thuộc.
Ông sinh ra tại huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây trong một gia đình 7 anh
chị em. Cha mất khi ông mới 14 tuổi, ông phải bỏ học xin làm phụ bàn
giấy cho một hãng buôn của Pháp, rồi sang làm cho hãng sơn dầu Sauvage
Cottu ở Hải Phòng. Tại đây, ông không ngừng nung nấu ý chí tạo dựng một hãng sơn dầu của người Việt Nam.
Để giấc mơ thành hiện thực, ông ý thức trước hết phải học, phải hiểu kỹ
thuật làm sơn của người phương Tây. Nhưng lúc đó tất cả các tài liệu kỹ
thuật này đều viết bằng tiếng Pháp. Để đọc được tủ sách của chủ, ban
ngày ông làm việc chăm chỉ, buổi tối tìm thầy học thêm tiếng Pháp, đọc
hết tủ sách của ông chủ.
Khi đã nắm bắt kiến thức, để lập nghiệp, ông bán đi chiếc xe đạp lấy
tiền làm vốn ban đầu, mở một cửa hàng nhỏ, bên ngoài chuyên nhận việc
quét sơn, kẻ biển, quét vôi ve nhà cửa, bên trong âm thầm chế tạo thử
sơn dầu.
Sản phẩm đầu tiên mà gia đình ông Nguyễn Sơn Hà tung ra thị trường là
thương hiệu “Resistanco”, tiếng Pháp có nghĩa là “bền chặt”, nhưng lại
không được người Pháp đánh giá cao. Không bỏ cuộc, ông tiếp tục miệt mài
nghiên cứu và cuối cùng, mẫu sơn hoàn hảo ra đời.
Chất lượng sơn của ông đã chinh phục cả người tiêu dùng Pháp và Việt.
Hơn nữa, giá thành sơn Resistanco rẻ hơn rất nhiều so với các loại sơn
khác. Hãng Descous et Cabaud thấy sơn Résistanco đã có chỗ đứng trên thị
trường nên nhận làm đại lý. Từ đó, sơn Résistanco bắt đầu được tiêu thụ
khắp nơi trong nước.
Năm 1920, khi vừa tròn 26 tuổi, ông mở được xưởng sơn Gecko tại Hải
Phòng, rộng 7.000m2. Không lâu sau đó, sơn Resistanco bắt đầu xuất khẩu
sang các nước Đông Dương và tiêu thụ nhanh chóng. Thấy một công ty Việt
phát triển quá mạnh, người Pháp khi đó tìm nhiều cách chèn ép việc kinh
doanh của gia đình, nhưng Nguyễn Sơn Hà vẫn trụ vững.
Năm 1939, trong một lần vào miền Nam, ông cùng vợ tới thăm Phan Bội
Châu đang bị Pháp quản thúc tại Huế. Lần gặp gỡ nhà yêu nước ở Huế đã
tác động sâu sắc đến doanh nhân Nguyễn Sơn Hà. Ông quyết định ra tranh
cử hội đồng thành phố, tham gia tích cực các hoạt động của Hội Trí tri,
Hội ánh sáng, thành lập Ban Cứu tế, Chi hội Truyền Bá quốc ngữ. Ông
từng đấu tranh với Pháp, Nhật đòi mở kho tấm cám để cứu đói, đứng ra
lập trường Dục Anh tại số nhà 46, phố Lạch Tray để nuôi dạy các em bé mồ
côi. Trong "Tuần lễ vàng”, ông và gia đình đã hiến toàn bộ nữ trang với
khoảng 10,5 kg cho cách mạng.
Sau khi người con trai cả tên Nguyễn Sơn Lâm - Đội trưởng Tự vệ Hải
Phòng hy sinh trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến tại mặt trận
Đông Khê (Hải Phòng), Nguyễn Sơn Hà đã quyết định đi theo con đường giải
phóng dân tộc: bỏ lại toàn bộ tài sản như nhà xưởng, đồn điền, tiền
của... đưa toàn bộ gia đình đi theo kháng chiến, mặc dù nhận được nhiều
đề nghị từ phía thực dân Pháp sẽ trả lại hoặc đền bù tài sản bị thiệt
hại nếu như ông từ bỏ kháng chiến.
Sau Cách mạnh tháng Tám, Nguyễn Sơn Hà trúng cử đại biểu Quốc hội khóa
đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hải Phòng. Từ đây, ông
có nhiều đóng góp cho cách mạng thông qua những sáng kiến của mình, như
làm vải nhựa cách điện, sản xuất giấy than, mực in, vải che mưa, chế tạo
lương khô, thuốc ho.
Sau kháng chiến chống Pháp, ông trở về Hà Nội và tiếp tục trúng cử vào Quốc hội Việt Nam khóa II, III, IV, V.
Đỗ Đình Thiện - bỏ thủ đô đưa cả gia đình lên Việt Bắc
Ông Đỗ Đình Thiện cùng gia đình tại chiến khu Việt Bắc
|
Ông Đỗ Đình Thiện sinh năm 1904 tại làng Noi (nay thuộc Cổ Nhuế, Từ
Liêm, Hà Nội) trong một gia đình 4 anh chị em, có bố là thư ký cho một
chủ đồn điền Pháp nhưng mất sớm. Ông Thiện được mẹ nuôi dưỡng cho học chữ Nho và chữ Quốc ngữ rồi sang Pháp du học.
Tại Pháp ông học trường Đại học Canh Nông (Toulouse), vừa học vừa tham
gia hoạt động cách mạng, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, rồi
vào Đảng Cộng sản Pháp năm 1928.
Ông bị cảnh sát Pháp bắt giữ khi trao truyền đơn cách mạng cho những
binh sĩ người Việt Nam đang trên đường hồi hương, bị kết án 4 tháng tù
và bị trục xuất về nước. Trước khi sang Pháp học, gia đình đã làm lễ
đính hôn cho ông với bà Trịnh Thị Điền (sinh năm 1912). Trong khi ông
Thiện đang du học ở Pháp thì bà Điền ở trong nước cũng tham gia hoạt
động cách mạng, bị bắt và bị kết án tù. Từ khi ông Thiện bị trục xuất về nước và bà Điền ra khỏi tù, ông bà làm đám cưới.
Bị kiểm soát gắt gao, nhà cửa thường xuyên bị khám xét, không thể trực
tiếp hoạt động cách mạng được, ông bà Thiện chuyển sang làm kinh tế, mở
hiệu buôn bán tơ lụa rồi tậu đất, dựng nhà máy, lập đồn điền… để khi có
điều kiện sẽ ủng hộ cách mạng, giúp đỡ các đồng chí mình hoạt động. Đến
đầu những năm 40 của thế kỷ trước, ông bà Thiện đã được giới tư sản Hà
Nội biết tiếng. Ông tẩy chay Pháp bằng cả việc không đi xe ô tô của
Pháp, mà tậu xe Ford của Mỹ.
Năm 1943, ông Thiện mua đồn điền Chi Nê (Lạc Thủy, Hòa Bình) rộng 7.331
ha, được xây dựng cuối thế kỷ XIX của một chủ đồn điền người Pháp giá
2.000 lượng vàng.
Năm 1946, trước khó khăn của Đảng không có nhà in riêng để in tiền, ông
Đỗ Đình Thiện đã đứng tên và bỏ tiền ra mua lại nhà in của Pháp và hiến
cho Chính phủ để lập nhà in tiền. Tháng 3/1946, nhà máy in tiền Tô-panh được chuyển về đồn điền Chi Nê của gia đình ông Thiện.
Chỉ hai ngày sau khi tuyên bố độc lập, ngày 4/9/1945 Chính phủ đã
ban hành Sắc lệnh đặt ra Quỹ Độc lập để thu nhận các món tiền và đồ vật
mà nhân dân tự nguyện đóng góp. Thời kỳ này, ông Đỗ
ĐìnhThiện được cử phụ trách Quỹ Độc lập Trung ương ở Hà Nội, đóng góp
nhiều tiền, vàng cho chính quyền cách mạng. Không những
vậy, ông còn mua đấu giá bức tranh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh do hoạ
sĩ Nguyễn Sáng vẽ với giá một triệu đồng Đông Dương (khoảng gần 2.000
lạng vàng), sau đó tặng ngay cho Uỷ ban kháng chiến hành chính Thành phố
Hà Nội.
Việc làm trên của ông Đỗ Đình Thiện được đánh giá là để nhằm biểu thị
lòng tin tưởng của nhân dân đối với lãnh tụ Hồ Chí Minh, chống lại những
âm mưu xuyên tạc, phá hoại của các thế lực thù địch, đồng thời để tăng
ngân sách cho chính quyền cách mạng.
Lúc mới giành được chính quyền, Nhà nước chưa có bộ phận lễ tân chuyên
trách do vậy việc tiếp các vị khách đặc biệt được giao cho một số gia
đình có điều kiện ở Hà Nội. Ngôi nhà ở 54 Hàng Gai của gia đình ông bà
Thiện trở thành "nhà khách" của Chính phủ.
Đồn điền Chi Nê không những trở thành nơi dưỡng quân cho các đơn vị
trước khi lên đường vào Nam chiến đấu, điểm dừng chân của nhiều lãnh đạo
Đảng. Từ cuối năm 1945 đầu năm 1946, nơi đây còn là cơ sở cung cấp
lương thực, thực phẩm, trú quân cho các đơn vị lực lượng vũ trang Chiến
khu
2.
Trong chuyến đi Pháp năm 1946, ông còn trở thành thư ký riêng của Hồ Chủ tịch. Năm 1947,
ông bà Đỗ Đình Thiện đưa cả gia đình gồm mẹ già và 4 con (nhỏ nhất 4
tuổi, lớn nhất 12 tuổi) lên Việt Bắc theo đuổi cuộc kháng chiến 9 năm.
Ông bà đã giao lại đồn điền Chi Nê cho Ban Kinh tài của Đảng quản lý, đồng thời đóng góp gần nửa cổ phần để xây dựng Việt Nam công thương Ngân hàng (tiền thân của Ngân hàng quốc gia Việt Nam). Khi kháng chiến thắng lợi, gia đình trở về Thủ đô, sống tại nhà riêng ở 76 Nguyễn Du, Hà Nội.
Ông Ngô Tử Hạ ngoài cùng bên trái.
|
Trước cách mạng, nhà in nổi tiếng Ngô Tử Hạ là mạnh thường quân của các trí thức yêu nước muốn in ấn sách báo. Ông sinh (1882-1973),
quê ở Qui Hậu, Kim Sơn, Ninh Bình, rời quê hương nghèo đói lên Hà Nội
lập nghiệp, làm thợ cho nhà in IDEO của Pháp từ năm 17 tuổi.
Công việc nặng nhọc, vất vả mà đồng lương chẳng được là bao song Ngô Tử
Hạ vẫn kiên nhẫn ở lại làm. Sau vài năm dè sẻn chi tiêu, Ngô Tử Hạ đã
dành dụm đủ tiền mua được một chiếc máy in thẻ hương. Ông bèn thôi làm
thuê, mà tự mình in thuê vỏ bao thẻ hương. Cứ cần mẫn, dè sẻn, rồi Ngô
Tử Hạ cũng có tiền mua thêm một vài chiếc máy gỗ in vỏ bao hương nữa,
mượn thêm thợ làm.
Từ bỏ lối làm nghề cò con với những chiếc máy in làm bằng gỗ đơn giản
chỉ in được vỏ bao thẻ hương, Ngô Tử Hạ quyết hiện đại hoá dần việc kinh
doanh nghề in của mình. Ông mua những chiếc máy in được xem là hiện đại
thời bấy giờ, chưa đủ tiền mua nhiều máy, thì ban đầu mua ít, tích luỹ
vốn được kha khá nhờ quản lý tốt và tiết kiệm trong chi phí kinh doanh
cũng như trong tiêu dùng hàng ngày của gia đình, ông lại bỏ tiền ra mua
thêm máy in mới.
Cơ sở đặt máy, lập nhà in, trước ông đi thuê, sau ông mua hẳn một khu
đất rộng bên đường phố Lý Quốc Sư, gần đền thờ Lý Triều Quốc sư, lại
cũng gần Nhà thờ lớn Hà Nội để xây dựng nhà in. Vị trí nhà in đắc địa,
máy in nhiều và hiện đại, thợ in đông, giải quyết chóng vánh, chất lượng
các hợp đồng in, uy tín của nhà in Ngô Tử Hạ ngày một được khẳng định.
Khách hàng của ông bao gồm cả trong nước, lẫn từ nước ngoài, nhất là
nước Pháp.
Tuy nhiên, Ngô Tử Hạ rất căm ghét thực dân Pháp và thường giao hảo với
những chí sĩ có lòng yêu nước như Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Văn Tố, Bùi
Bằng Đoàn...
Cách mạng tháng Tám thành công, Ngô Tử Hạ là chí sĩ yêu nước được bầu
làm đại biểu Quốc hội, rồi ủy viên Ban thường trực của Quốc hội khóa I
và là đại biểu cao tuổi nhất.
Khi đó Ngô Tử Hạ là người đứng đầu Hội cứu tế, cứu đói của Chính phủ đã
hoạt động tích cực, tận tụy vào cuộc đấu tranh chống giặc đói của Nhà
nước cách mạng, góp phần vào việc giữ nước trong những ngày đầu gian
nan.
Theo bản kê khai nhà đất xin hiến cho Nhà nước của gia đình cụ Ngô Tử
Hạ được lập vào ngày 29/7/1960, ông đã hiến tặng Nhà số 24-48 Lý Quốc Sư
và 2/12 Ngõ Huyện (diện tích 2.251 m2), nhà số 60 Nguyễn Du (diện tích
1.095 m2), nhà số 8 Lý Quốc Sư (diện tích 84 m2), nhà số 4 ngõ 339 Thịnh
Yên (diện tích 2.210 m2), nhà số 31 Hàng Bông (diện tích 182 m2). Gia
đình cụ Ngô chỉ giữ lại 200 m2 ở số nhà 24-48 Lý Quốc Sư và 2/12 Ngõ
Huyện để ở và sau này làm nơi thờ tự.