Mặc dù Keynes là một trong những nhà
đầu tư thành công nhất trong nửa đầu thế kỷ 20, những bài học mà Keynes
học được từ những thất bại quá trình đầu tư vẫn còn vang vọng đến tận
ngày nay.

Cho đến tận ngày nay, lý thuyết kinh tế vĩ mô của nhà kinh tế học
John Maynard Keynes vẫn tiếp tục là tâm điểm của các cuộc tranh luận về
chính sách kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, chúng ta không nên quên rằng nhà
kinh tế học vĩ đại này cũng là 1 trong những nhà đầu tư hoạt động sôi
nổi nhất trong thời kỳ đầu những năm 1930.
Ở 1
khía cạnh nào đó, Keynes cũng chính là người đi tiên phong trong lĩnh
vực quỹ đầu cơ. Ông đã đầu tư vào các macro hedge fund (loại quỹ tìm
kiếm lợi nhuận từ các biến động của các chính sách vĩ mô như chính sách
lãi suất – điều ảnh hưởng đến thị trường tiền tệ, chứng khoán và trái
phiếu) vào những năm 1920 và sau đó là các quỹ đầu cơ chứng khoán vào
những năm 1930.
Keynes đã kiếm được rất
nhiều tiền từ đầu tư nhưng cũng bị thua lỗ khá nhiều. Các khoản lợi
nhuận cũng như thua lỗ không chỉ liên quan đến tài sản của chính Keynes
mà là tài sản của bạn bè, đồng nghiệp (tại King’s College hay Cambridge)
và đến cả các tổ chức mà ông đóng vai trò là chủ tịch hoặc người sáng
lập.
Mặc dù Keynes là một trong những nhà đầu
tư thành công nhất trong nửa đầu thế kỷ 20, những bài học mà Keynes học
được từ những thất bại quá trình đầu tư vẫn còn vang vọng đến tận ngày
nay.
Keynes thực sự bắt đầu hoạt động
đầu tư vào đầu những năm 1920. Khi đó, ông tin rằng hệ thống tiền tệ
của các nền kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh thế giới thứ
nhất (bao gồm Đức, Pháp và Italia) sẽ sớm sụp đổ khi lạm phát tăng vọt.
Rất tự tin rằng đây là cơ hội để kiếm tiền, Keynes tuyên bố rằng chỉ cần
có “một chút kiến thức uyên thâm và kinh nghiệm,” nhà đầu tư có thể
kiếm tiền 1 cách đơn giản.
Tuy nhiên, thực tế
không hoàn toàn như vậy. Tháng 5/1920, thị trường nhất thời trở nên lạc
quan về những tiến triển ở nước Đức. Do đó, vị thế của những nhà đầu tư
có tỷ lệ đòn bẩy quá cao trên thị trường nhanh chóng bị đảo ngược.
Keynes
bị thua lỗ nặng và phải vay thêm tiền của người cha để bù lại số lỗ.
Đến năm 1922, ông đã hoàn trả được cho các thành viên trong nghiệp đoàn
số tiền thua lỗ và có tài sản tích lũy cá nhân trị giá 21.000 bảng Anh.
Những
phán đoán về mặt kinh tế vĩ mô của Keynes vẫn là chính xác như thường
lệ. Tuy nhiên, ông đã học được một bài học quan trọng: thị trường có thể
sai lệch trong thời gian dài hơn so với thời gian mà hầu hết các nhà
đầu tư có thể giữ vững được thanh khoản.
Cuối
những năm 1920, Keynes lại lặp phải 1 sai lầm khác. Ông tin rằng Cục dự
trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ có thể giữ vững được tốc độ tăng trưởng cao
của nền kinh tế bởi lạm phát đang trong tầm kiểm soát. Tuy nhiên, mọi
thứ lại diễn biến ngược lại. Do đó, tài sản của ông bị sụt giảm trước
các biến động của thị trường chứng khoán. Đặc biệt, ông bị ảnh hưởng
nặng nề bởi thị trường hàng hóa trong thời gian từ 1928 – 1929, khi Fed
bất ngờ thắt chặt chính sách lãi suất và đế chế cao su toàn cầu sụp đổ.
Như
vậy, 1 lần nữa, Keynes lại bị thua lỗ lớn khi cuộc đại khủng hoảng bắt
đầu. Thời kỳ này dạy cho Keynes 2 bài học: không được chống lại Fed và
cũng không được hiểu lầm những động thái của Fed. Đương nhiên, hiểu được
chính xác những động thái của Fed không phải là điều dễ dàng.
Theo
tài liệu nghiên cứu của D.E. Moggridge đưa ra vào năm 1992, Keynes là 1
người cực kỳ “cứng đầu” trước những biến động trong ngắn hạn của thị
trường. Quá tự tin cùng với bảo thủ là điều tối kỵ đối với 1 nhà đầu tư
quỹ macro. Kết quả đầu tư của Keynes trong thời kỳ những năm 1920 không
mấy tốt đẹp.
Tuy nhiên, giống như các nhà đầu
tư vĩ đại khác, Keynes đã học được sự khiêm tốn và nhún nhường từ những
thất bại trong quá khứ. Sang đến giữa những năm 1930, ông đã đặt niềm
tin vào Tổng thống Franklin D. Roosevelt, cho rằng ông này sẽ thành công
trong việc kích thích nền kinh tế Mỹ.
Một lần nữa, ông lại sử dụng margin để tạo đòn bẩy cho danh mục đầu tư cá nhân. Mặc dù danh mục vẫn bị biến động mạnh, ông đã chọn đúng thời điểm và chứng kiến tài sản tăng vọt, vượt mức 400.000 bảng Anh khi ông qua đời năm 1946.
Một lần nữa, ông lại sử dụng margin để tạo đòn bẩy cho danh mục đầu tư cá nhân. Mặc dù danh mục vẫn bị biến động mạnh, ông đã chọn đúng thời điểm và chứng kiến tài sản tăng vọt, vượt mức 400.000 bảng Anh khi ông qua đời năm 1946.
Không
dừng lại ở đó, Keynes đã áp dụng phương thức tiếp cận mới khi đầu tư
vào chứng khoán. Đầu năm 1924, Keynes đã nhận ra rằng trong dài hạn,
phần bù rủi ro của cổ phiếu sẽ tạo ra lợi nhuận vượt trội so với trái
phiếu. Trong khi đó, hầu hết các nhà đầu tư trên thị trường vào thời kỳ
đó đều tin vào điều ngược lại.
Có thể nói,
chiến lược phân bổ cổ phiếu và trái phiếu trong danh mục đầu tư của
Keynes đã trở thành 1 bước đột phá. Ở đây, 1 bài học có thể được rút ra:
chọn đúng loại tài sản để đầu tư luôn là nền tảng quan trọng nhất để
thành công trong dài hạn.
2 học giả David
Chambers và Elroy Dimson đã dựa trên những dữ liệu thu thập được từ
King’s College để phân tích về kết quả đầu tư của Keynes. Họ rút ra kết
luận rằng phương pháp đầu tư của Keynes là tập trung vào một số cổ phiếu
chủ chốt (đây cũng là phương pháp được Warren Buffett áp dụng).
Bên
cạnh những cổ phiếu có giá trị vốn hóa cao, Keynes cũng tập trung đầu
tư vào các cổ phiếu có vốn hóa nhỏ hoặc trung bình nhưng trả cổ tức cao.
Keynes đã trở thành 1 nhà đầu tư ngược xu thế (contrarian investor) khi
mua những cổ phiếu có diễn biến không tốt bằng diễn biến chung của thị
trường. Ông cũng sử dụng đòn bẩy nhưng đi kèm với đó là các giới hạn
chặt chẽ để có thể kiểm soát rủi ro. Cho đến nay, hầu hết các nhà quản
lý quỹ đầu cơ chứng khoán (cả ngắn hạn và dài hạn) đang áp dụng các kỹ
thuật này vào danh mục đầu tư của họ.
Theo
Chambers và Dimson, trong suốt 22 năm quản lý danh mục đầu tư của King’s
College, hệ số Sharpe (thước đo lợi nhuận trên một đơn vị rủi ro khi
đầu tư) trong danh mục của Keynes là 0,69, cao hơn rất nhiều so với tỷ
lệ trung bình 0,45 của các danh mục cùng thời kỳ. Bất cứ nhà đầu tư nào
hướng đến tỷ lệ cao hơn tỷ lệ này đều đang theo đuổi 1 giấc mơ không thể
trở thành hiện thực.