(Bài viết trên báo Tuổi trẻ tháng 1/2007)
Ông Trần Văn Thình. Ảnh: Tuổi Trẻ.
|
Dưới đây là câu chuyện ông kể về đời mình cho báo Tuổi Trẻ.
Tôi chào đời ngày 5/2/1929 ở tỉnh An Giang, một vùng
quê êm ả thanh bình. Cha tôi đặt tên cho tôi là Trần Văn Thìn, đơn giản
bởi tôi cầm tinh con rồng. Thế nhưng lúc làm giấy khai sinh, người ta
nói sao viết vậy theo kiểu phát âm miền Nam nên tên tôi bị ghi thành
Trần Văn Thình. Vậy là tôi mang cái tên lạ vì sự nhầm lẫn đó.
Không biết từ bao giờ, trong gia đình tôi định ra một
nguyên tắc: con cái không trở thành thương nhân mà phải trở thành công
chức.
Ông bà thân sinh của ông Trần Văn Thình năm 1991 ở Geneva. Ảnh: Tuổi Trẻ.
|
Thuở
thiếu thời, tôi không tỏ ra đặc biệt hay xuất chúng, cũng có đầy đủ
thói hư tật xấu như những đứa trẻ khác. Nhưng một “sự cố” đã làm tôi
biến đổi hoàn toàn. Đó là năm tôi được 8 tuổi. Tôi về quê nội ở Sa Đéc
nghỉ hè. Ông nội tôi có tới ba bà vợ, trong đó bà nội tôi là người trẻ
nhất. Bà thứ hai làm nghề bán thuốc bắc. Bà có tiền và là người rất
nghiêm khắc. Nhà ông bà nội nhìn ra bờ sông mênh mông, thuyền bè đỗ
giăng kín. Tối tối, người ta vẫn thường tổ chức đánh bạc trên các con
thuyền ấy.
Có lần tôi đi theo mấy người lớn để xem đánh bạc. Tôi
thấy mình cũng có khiếu đỏ đen vì thường đánh trúng. Ngặt một nỗi tôi
không có tiền. Tôi để ý bà Hai có một hòm không bao giờ khóa, bên trong
có rất nhiều túi vải nhỏ đựng tiền. Một hôm nhân lúc vắng người, tôi lẻn
vào phòng lấy một túi. Làm một lần không bị ai phát hiện trong khi đánh
bạc lại thua, tôi lấy tiếp lần hai. Rồi cứ thế tiếp diễn lần thứ ba và
thứ tư. Đến lần thứ năm tôi bị bà Hai phát hiện. Bà Hai hỏi tôi ba bốn
lần: “Bà nên xử sự thế nào đây?”. Tôi đáp: “Bà đánh cháu mấy roi cũng
được, phạt sao cháu cũng chịu. Chỉ xin bà đừng mách ông nội”. Trong nhà,
tôi sợ ông nội hơn cả vì lúc nào ông cũng nghiêm khắc với con cháu. Bà
nói: “Bà sẽ cho cháu một cơ hội. Trong khi cháu suy nghĩ, bà sẽ chưa nói
gì với ông. Nhưng cháu phải nghĩ ra một cách để sửa chữa lỗi lầm”.
"Cựu du kích Việt Nam trở thành quan chức hàng đầu của EC" - tít bài đăng trên tạp chí FEER năm 1993 về ông. Ảnh: Tuổi Trẻ.
|
Hôm
sau, tôi còn nhớ là một buổi chiều khi hoàng hôn buông xuống bên sông,
các nhà đã thắp đèn dầu, bà Hai gọi tôi ra nói chuyện. Tôi thưa với bà:
“Cháu xin hứa từ nay trở đi cháu không bao giờ ăn cắp nữa”. Bà Hai ngồi
lặng thinh, không nói gì lâu lắm. Sau cùng bà bắt tôi phải kể hết cho bà
nghe tất cả những lần tôi đã từng ăn cắp vặt. Tôi thành thật kể tôi
từng trộm tiền của cha, thậm chí trộm cả tiền trong túi áo của khách khi
họ đến nhà tôi chơi. Tôi cũng kể trong bộ sưu tập tem của cha tôi có
hai con tem Hungary rất đẹp. Một hôm, tôi bóc trộm để đổi lấy mấy cái
nắp chai chơi đánh đáo với bọn trẻ. Cha tôi phát hiện, triệu tập cả nhà
vào đúng 18 giờ để chứng kiến hình phạt. Trước mặt bà nội, em trai và em
gái tôi, cha tôi bắt tôi tuột quần, đánh đúng 10 roi vào mông. Bà nội
tôi khóc hu hu vì thương tôi nhưng cha tôi không chịu ngừng tay. Thế
nhưng tôi không khóc. Tôi chỉ cảm thấy ê mặt vì bị đòn giữa chốn đông
người.
Sau buổi tối hôm đó, bà Hai gặp lại tôi, yêu cầu tôi
nhắc lại lời hứa. Bà nghe rồi nói: “Cháu có chắc đây sẽ là lần cuối cùng
không. Cháu đi ăn trộm mới phải nói dối, còn không làm gì sai thì không
bao giờ phải nói dối. Làm điều xấu lúc nào cũng phải nghĩ cách đối phó,
không bao giờ sống vui được. Điều thứ hai cháu phải nhớ câu “cờ gian
bạc lận”. Họ giả vờ cho cháu thắng mấy lần đầu đấy, còn khi cháu mang
tiền ra đánh rồi, cháu có thấy là mình toàn bị thua không?”. Cứ như thế
ba ngày liền, chiều nào bà Hai cũng gọi tôi ra, bắt lặp đi lặp lại lời
hứa không bao giờ ăn trộm nữa. Ngày cuối cùng, bà hỏi: “Sau những lần
cháu hứa như vậy, từ giờ trở đi bà có thể tin cháu được chưa?”. Tôi trả
lời: “Cháu xin hứa không bao giờ làm chuyện dại dột như thế nữa”.
Lời hứa ấy theo tôi đi suốt những năm tháng sau này.
Từ đó trở đi, tôi không bao giờ tham gia bất kỳ một trò chơi đỏ đen nào
nữa. Lớn lên, tôi ngẫm nghĩ mãi không biết vì sao một bà già ở vùng quê
VN lại có cách giáo dục tài tình vậy. Rồi tôi ngộ ra: tất cả phải do tự
giác. Bà tôi không thể bắt ép tôi không được nói dối nữa, không được ăn
trộm vặt nữa. Mà chính tôi, sau những cuộc đối thoại với bà, tự cảm thấy
đó là điều xấu xa không nên lặp lại. Tôi ghi sâu trong lòng hình ảnh
cuộc đối thoại cuối cùng, bà nhìn tôi với con mắt âu yếm. Tôi đã khóc
không phải vì xấu hổ mà vì cảm động.
Năm 1945, sau khi phát xít Nhật bị đánh bại ở VN, tôi
tham gia kháng chiến. Lúc ấy, thành thật mà nói tôi chưa hiểu lắm về
lòng yêu nước. Gia đình tôi vốn có quan hệ khá thân thiết với người
Pháp, thậm chí khi người Nhật tạm chiếm miền Nam, cha tôi còn giúp người
Pháp cất giấu vũ khí và thuốc men. Việc làm này xuất phát từ lòng tin
vào tuyên bố của tướng De Gaulle tháng 1-1944 tại Brazzaville (Congo bây
giờ) rằng các nước thuộc địa giúp Pháp chống phát xít Đức sẽ được trả
độc lập. Nhưng sau đó, những người Pháp thực dân đã không giữ lời hứa.
Tôi bị ảnh hưởng nhiều bởi đạo Khổng, từ bé đã thuộc làu làu Tam Quốc.
Tôi thích nhất là Quan Công, nhân vật trung thành đến tận xương tủy. Vì
vậy, khi thực dân Pháp quay trở lại VN, tôi quyết định tham gia các hoạt
động kháng Pháp. Tôi còn rất ghét cha tôi vì ông từng giúp đỡ người
Pháp.
Lúc ấy tôi học Trường Pétrus Ký (nay là Trường Lê Hồng
Phong). Các học sinh trong trường có phong trào làm lựu đạn tự tạo. Tôi
cũng tham gia và giúp một số học sinh cất giữ lựu đạn. Một kỷ niệm ở
Trường Pétrus Ký là các học sinh người VN phải tham gia thi tuyển để
được vào học. Tôi nhớ khóa năm 1939, năm tôi lên 10, tôi thi vào lớp 6
cùng 3.000 thí sinh khác và đậu thứ ba. Cha tôi làm một bữa tiệc nhẹ,
gồm có phó mát, sandwich và rượu vang. Đó là lần đầu tiên trong đời tôi
được nếm một ly rượu vang đỏ chát.
Đầu năm 1946, tôi trốn nhà, bỏ học để tham gia lực
lượng vũ trang bộ đội Hoàng Diệu thuộc Tỉnh bộ Đồ Chiểu (Bến Tre). Một
ngày nọ trên đường hành quân, tôi gặp lại một anh bạn học ở Pétrus Ký.
Anh ấy quí tôi, gặp lại tôi liền lôi chai rượu Bordeaux anh ấy cất giấu
rất kỹ ra mời. Tôi không uống một mình mà mời cả tỉnh đội uống. Chúng
tôi được một buổi thư giãn. Không ngờ khi trung đội trưởng biết chuyện,
ông ấy nổi trận lôi đình và ra quyết định hành quyết bạn tôi. Tôi lên
tiếng bênh vực thì ông ấy đòi xử tử luôn cả tôi nữa. Tôi đành im lặng.
Anh bạn tôi bị bỏ rọ trôi sông. Khi chứng kiến cảnh tượng ấy, tôi quyết
định bỏ đi. Tôi nghĩ cách hành xử như vậy là không cao thượng và không
công bằng.
Tôi đi lang thang nơi này nơi nọ. Một hôm, tôi nhớ là
một ngày nắng hè tháng 6-1946, đang lang thang ở chợ thì bỗng đâu mấy
người lính Pháp ập tới. Hóa ra mẹ tôi đã nhờ lính đến bắt đưa tôi về. Mẹ
thuyết phục tôi về Sài Gòn học lại, nếu không sẽ cho lính bắt bỏ tù
luôn. Vậy là tôi về nhập học ở Trường trung học Chasseloup-Laubat, nay
là Trường Lê Quý Đôn.
Trong gần bảy tháng theo kháng chiến ấy, người làm tôi
cảm động nhất là người vợ thứ ba của cha tôi. Mỗi khi gặp chuyện gì,
tôi hay chạy về nhà bà Ba ở Bến Tre để lánh nạn. Tôi quí bà bởi bà che
chở và lo lắng cho tôi không khác gì con ruột.
Trở về Sài Gòn, những tưởng tôi sẽ tu chí ăn học, nhưng những rắc rối mới thật sự bắt đầu.