Một tối tháng 9/1946, tôi vừa mua được
hai quả lựu đạn thì gặp lính Pháp đi tuần, bị bắt quả tang với hai quả
lựu đạn trong túi. Một sĩ quan nhìn tôi rồi ra lệnh: “Phải xử bắn ngay”.
Trần Văn Thình thời trai trẻ. Ảnh: Tuổi Trẻ.
|
Về
Sài Gòn học, tôi càng có điều kiện nghe các bài hát của Trần Văn Khê,
Lưu Hữu Phước - những bài hát đậm đà tình quê hương và thúc giục chí làm
trai. Lúc ấy, tôi đặc biệt thích bài Ngày xưa của tác giả Hoàng Phú,
trong đó có câu “đôi quần thoa đem máu đào hòa nước sông nhà” ngợi ca
tinh thần yêu nước của Hai Bà Trưng.
Tôi quyết định tham gia một nhóm hoạt động bí mật.
Hằng ngày tôi được giao nhiệm vụ đến một hiệu sách. Tôi giở các quyển
sách theo mật dấu đã được thông báo trước, trong đó có thể chứa một tờ
chỉ thị cho hành động tiếp theo hoặc là ít tiền để mua lại vũ khí của
những người lính lê dương da đen.
Một tối tháng 9/1946, tôi vừa mua được hai quả lựu đạn
thì gặp lính Pháp đi tuần, bị bắt quả tang với hai quả lựu đạn trong
túi. Một sĩ quan nhìn tôi rồi ra lệnh: “Phải xử bắn ngay”. Nhưng tay trợ
lý bảo rằng để đến 6 giờ sáng mai mới hành quyết được vì lúc ấy đã 23
giờ, muộn rồi.
Tôi bị tống vào một phòng giam trên đường Catinat
(Đồng Khởi bây giờ). Ở đó đã có khoảng vài chục người bị giam từ trước.
Phòng giam bốc mùi hôi hám vì tất cả việc đại tiểu tiện đều diễn ra ở
đó. Tôi là người cuối cùng bị nhốt vào. Lúc ấy tôi coi cái chết nhẹ như
lông hồng. Tôi đã chứng kiến nhiều bạn bè chết hoặc bị thương nên không
thấy sợ hãi lắm.
Năm giờ sáng, cửa phòng giam bật mở. Một cha tuyên úy
mang lon quan ba (đại úy) bước vào. Ông ta có nhiệm vụ cầu nguyện cho
những người sắp bị đưa đi hành quyết. Nhìn một lượt, ông ta dừng mắt lại
ở tôi, người bé nhỏ nhất phòng. Ông ta nói: “Mày là trẻ ranh mà đã tham
gia khủng bố. Giết mày phí đi, mày nên đi theo tao”.
Tôi nghĩ họ định đưa tôi đi thủ tiêu riêng nên chống
đối kịch liệt. Tôi nói tôi không mang tội khủng bố, tôi căm thù sự dối
trá và tội lỗi. Nhưng cha tuyên úy bỗng hạ giọng: “Ta sẽ cứu con. Nước
Pháp không giết trẻ con. Ta sẽ giúp đưa con đi Pháp”. Nghe vậy, tôi còn
cãi lại: “Không, tôi căm thù nước Pháp”. Cha tuyên úy nói: “Kể ra con
nói cũng phải. Nhưng cứ sang Pháp đi đã. Nhân dân Pháp khác với chính
quyền thực dân. Ở đó cũng có những người tử tế. Hơn nữa, ta có bạn bè ở
đó, họ có thể tìm một suất học bổng cho con”. Vậy là tôi nghe lời, theo
cha bước ra khỏi phòng giam. Tôi thoát chết trong gang tấc, chắc là nhờ
“cao số”.
Một sáng tinh sương vài tuần sau đó, tôi bước xuống
một chiếc tàu quân sự đi sang cảng Toulouse miền tây nam nước Pháp. Hành
trang mang theo chỉ có ít tiền tiêu vặt do cha tuyên úy cho, một tờ
giấy ghi địa chỉ một người chú kết nghĩa đang làm ăn sinh sống tại Pháp.
Đặt chân xuống Toulouse, tôi co ro trong lạnh giá.
Nhưng khi gặp mấy người Pháp đầu tiên, tôi bỗng dậy
lên một ý nghĩ trả thù kỳ quặc. Tôi gọi họ tới đánh giày cho mình. Sau
đó, tôi tìm về Trường cao đẳng Cevenol ở thị trấn Chambon sur Lignion,
vùng Auvergne miền nam nước Pháp, nơi cha tuyên úy gửi gắm tôi cùng một
suất học bổng. Đó là một ngôi làng đẹp như tranh và thanh bình. Quanh
tôi là những cô gái chăn cừu xinh như mộng. Tôi bắt đầu hai năm yên ả
trong cuộc đời mình, chỉ lo học.
Bạn thử tưởng tượng hình ảnh một cậu bé da vàng, cao
chưa tới 1,6m, trứng cá nổi lấm tấm trên mặt và tính tình nhút nhát, đơn
độc nơi xa lạ. Đó chính là hình ảnh của tôi những ngày đầu đặt chân tới
nước Pháp. Tôi nghĩ cách phải làm sao vượt qua được những “thằng Tây”
to cao xung quanh mình. Tôi lý sự thế này: trắng nghĩa là bạc, da vàng
nghĩa là vàng, mà vàng thì quí hơn bạc. Tôi tự an ủi mình như thế để
vượt qua sự tự ti. Sau này, đó cũng là một phương châm sống của tôi:
biến nhược điểm thành lợi thế.
Khi rời VN, tôi còn đang dang dở chương trình tú tài.
Vậy mà tới Pháp tôi phải nhập học cao đẳng, nghĩa là vượt trình độ của
mình những ba năm.
Sau hai năm học ở Chambon sur Lignion, tháng 10/1948
tôi khăn gói lên Paris vào học tại Viện Khoa học chính trị, Đại học
Paris (Institut des Sciences Politiques - Université de Paris), bắt đầu
quãng đời sinh viên cực khổ nhưng cũng đầy ắp kỷ niệm. Cha mẹ tôi không
gửi tiền cho tôi ăn học. Cứ hai tháng ông bà chỉ gửi cho tôi một bịch
gạo, cộng một đôi giày đế kếp và một chút hạt tiêu. Nước Pháp những năm
1950 còn nghèo. Tôi nghĩ rằng không đi làm thêm thì không thể nào đủ
tiền ăn học. Vậy là tôi kiếm đủ việc để làm.
Ngày đi học, tối tối tôi gia nhập đội quân lao động
cửu vạn ở khu chợ Paris mang vác hàng thuê và giúp bán cam, bán hoa. Như
nhiều nơi nghèo khổ khác, cam còn bán được chứ hoa thì tịch chẳng ai
mua. Mấy người chủ trả công tôi không phải bằng tiền mà bằng luôn cam và
hoa, thỉnh thoảng khá hơn được cải thiện bằng chút sữa chua. Tôi lại
phải bán lại số hoa và cam ấy để lấy tiền.
Vì đi làm thêm nhiều, tôi đến lớp thất thường, hay
phải mượn sách vở của các bạn chép lại rồi học bằng tài liệu đó. Có một
lần tôi đi mua sách bị thiếu 300 quan. Đứng bên cạnh tôi cùng mua sách
là một thằng bạn cao to đẹp trai, con nhà giàu. Tôi bèn hỏi vay tiền.
Cậu ta vui vẻ giúp. Sau này, khi tôi góp đủ tiền mang tới lớp trả, cậu
ta nói với tôi: “Tao biết mày nghèo. Mày giữ lại mà tiêu. Tao không lấy
nữa”.
Trần Văn Thình dẫn đầu một đoàn đại biểu châu Âu tại
hội nghị thương mại thế giới gồm đại diện 88 quốc gia tháng 11/1982 tại
Geneva. Ảnh đăng trên báo New York Times tháng 11/1982. Ảnh Tuổi Trẻ.
|
Người
bạn ấy là Jacques Chirac, vị tổng thống đương nhiệm của nước Pháp. Còn
nhớ khi tôi cùng ông Chirac đến TP.HCM lúc ông còn là thị trưởng Paris,
tôi nhắc tới món nợ năm nào. Ông ấy hài hước bảo rằng nếu tính cả gốc
lẫn lãi thì 300 quan năm nào nay thành món tiền khổng lồ rồi, tôi chẳng
thể nào trả nổi.
Trong lớp tôi còn có một bạn học sau này cũng trở
thành nhân vật nổi tiếng: cựu thủ tướng Pháp Michel Rocard. Tháng
11/2006, tôi đưa ông ấy cùng vợ và một nhóm bạn bè về VN du lịch. Trong
lớp học, Jacques Chirac và Michel Rocard luôn đứng nhất nhì, còn tôi do
hay bỏ học nên đứng hạng áp chót. Thế nhưng tôi thường được thầy giáo
khen trước lớp vì sự nhanh nhẹn, giỏi xoay xở. Lấy bằng cử nhân xong,
tôi lại theo học tiếp để lấy bằng tiến sĩ luật và kinh tế.
Tôi ở trọ tại một căn gác xép trên tầng bảy không có
lò sưởi. Đi học về, tôi chui vào rạp chiếu phim ngủ nhờ từ 14g-18g cho
ấm. Đói bụng, tôi nghĩ cách xin bà bán cá ở dưới nhà những mẩu xương cá
và đầu cá thừa. Tôi nhớ bà ấy là một phụ nữ trông rất ưa nhìn. Tôi nói
với bà tôi có nuôi một con mèo, bà ấy vui vẻ cho ngay. Tôi mang về, lạng
những mẩu thịt để riêng, còn xương và đầu cá tôi ninh lên thành xúp rồi
ăn với bánh mì thành một món ngon tuyệt.
Được một thời gian, một hôm khi tôi xuống xin xương cá
như thường lệ, bà bán cá hỏi tôi: “Nhà anh nuôi mèo thật không?”. Tôi
im lặng, bà ấy nhân hậu bảo: “Anh chính là con mèo phải không?”. Từ đó,
bà ấy để dành cho tôi những miếng ngon hơn, sạch sẽ hơn. Sau này, tôi
cùng vợ trở lại căn gác trọ năm xưa để tìm gặp bà bán cá, nhưng bà không
còn ở đó nữa. Đó là một trong những nỗi thất vọng lớn nhất của tôi. Sự
tốt bụng của bà làm tôi nhớ mãi.
(Tuổi Trẻ)