Quỹ đầu tư chứng khoán là quỹ hình
thành từ vốn góp của nhà đầu tư với mục đích kiếm lợi nhuận từ việc đầu
tư vào chứng khoán hoặc các dạng tài sản đầu tư khác, kể cả bất động
sản, trong đó nhà đầu tư không có quyền kiểm soát hàng ngày đối với việc
ra quyết định đầu tư của quỹ.
- Vào khoảng giữa thế kỷ 19, tại Hà Lan, những thương nhân đã hình
thành ý tưởng tập trung các khoản tiền nhỏ thành một nguồn lớn hơn để
đầu tư.
- Tiếp theo đó, vào ngày 21/3/1924, quỹ tương hỗ đầu tiên chính thức được thành lập bởi ba nhà kinh doanh chứng khoán tại Boston (Hoa Kỳ) có tên gọi Quỹ Tín thác các nhà đầu tư Massachusetts (Massachusetts Investors Trust-MIT). Sau một năm thành lập, Massachusetts Investors Trust với 50.000 đô-la Mỹ ban đầu đã sở hữu khối tài sản trị giá 392.000 USD và thu hút gần 200 nhà đầu tư. MIT tập trung và các cổ phiếu lớn, tăng trưởng nhanh và có trả cổ tức. Mặc dù Quỹ đầu tư có gốc gác từ châu Âu, nhưng Hoa Kỳ mới là nơi các quỹ đầu tư phát triển mạnh mẽ nhất.
- Tiếp theo đó, vào ngày 21/3/1924, quỹ tương hỗ đầu tiên chính thức được thành lập bởi ba nhà kinh doanh chứng khoán tại Boston (Hoa Kỳ) có tên gọi Quỹ Tín thác các nhà đầu tư Massachusetts (Massachusetts Investors Trust-MIT). Sau một năm thành lập, Massachusetts Investors Trust với 50.000 đô-la Mỹ ban đầu đã sở hữu khối tài sản trị giá 392.000 USD và thu hút gần 200 nhà đầu tư. MIT tập trung và các cổ phiếu lớn, tăng trưởng nhanh và có trả cổ tức. Mặc dù Quỹ đầu tư có gốc gác từ châu Âu, nhưng Hoa Kỳ mới là nơi các quỹ đầu tư phát triển mạnh mẽ nhất.
- Quỹ thành viên là quỹ đầu tư chứng khoán có số thành viên tham
gia góp vốn không vượt quá ba mươi thành viên và chỉ bao gồm thành viên
là pháp nhân.
- Quỹ mở là quỹ đại chúng mà chứng chỉ quỹ đã chào bán ra công chúng phải được mua lại theo yêu cầu của nhà đầu tư.
- Quỹ đóng là quỹ đại chúng mà chứng chỉ quỹ đã chào bán ra công chúng không được mua lại theo yêu cầu của nhà đầu tư.
- Quỹ mở là quỹ đại chúng mà chứng chỉ quỹ đã chào bán ra công chúng phải được mua lại theo yêu cầu của nhà đầu tư.
- Quỹ đóng là quỹ đại chúng mà chứng chỉ quỹ đã chào bán ra công chúng không được mua lại theo yêu cầu của nhà đầu tư.
- Quỹ đầu tư đầu tiên xuất hiện vào khoảng đầu những năm 1990.
Trong nửa đầu thập kỷ 90, đã có tám quỹ đầu tư tiến hành hoạt động tại
đây với tổng lượng vốn huy động khoảng 700 triệu USD
- Do những khó khăn của nền kinh tế, vào thời điểm sau năm 1997 chỉ còn lại hai quỹ đầu tư là Vietnam Enterprise Investment Fund (VEIL) do công ty Dragon Capital quản lý và Vietnam Frontier Fund (VFF) thuộc tập đoàn Finansa.
- Giai đoạn sau, từ 2002 đến 2005, hoạt động của các quỹ đầu tư tương đối trầm lặng. Mặc dù vậy vẫn xuất hiện thêm nhiều quỹ mới thuộc các công ty Mekong Capital, VinaCapital, IDG, VietFund hay PXP Asset Management.
- Với những biến đổi tích cực và mạnh mẽ của thị trường chứng khoán, từ giữa năm 2006, hệ thống tài chính Việt Nam ghi nhận giai đoạn bùng nổ các quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ.
- Do những khó khăn của nền kinh tế, vào thời điểm sau năm 1997 chỉ còn lại hai quỹ đầu tư là Vietnam Enterprise Investment Fund (VEIL) do công ty Dragon Capital quản lý và Vietnam Frontier Fund (VFF) thuộc tập đoàn Finansa.
- Giai đoạn sau, từ 2002 đến 2005, hoạt động của các quỹ đầu tư tương đối trầm lặng. Mặc dù vậy vẫn xuất hiện thêm nhiều quỹ mới thuộc các công ty Mekong Capital, VinaCapital, IDG, VietFund hay PXP Asset Management.
- Với những biến đổi tích cực và mạnh mẽ của thị trường chứng khoán, từ giữa năm 2006, hệ thống tài chính Việt Nam ghi nhận giai đoạn bùng nổ các quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ.
- Với tín hiệu tăng trưởng khả quan của nền kinh tế Việt Nam trong
những năm gần đây, các quỹ đầu tư tại Việt Nam đã phát triển nhanh
chóng. - Giữa năm 2006, VinaCapital đã khai trương quỹ đầu tư bất động
sản Vinaland với dự kiến huy động 50 triệu USD và đã nhận được 65 triệu
USD từ các nhà đầu tư. Indochina Capital Vietnam Holding Limited đã phát
hành và niêm yết thành công trên thị trường chứng khoán London, với dự
kiến thu hút từ 300-350 triệu USD, và đã huy động được 500 triệu USD.
Indochina Capital cũng ra mắt quỹ địa ốc (42 triệu USD), và quỹ chứng
khoán (50 triệu USD). Quĩ đầu tư mạo hiểm DFJ-VinaCapital cũng được ra
đời trong năm 2006 với tổng vốn đầu tư ban đầu 50 triệu USD. Dragon
Capital, ngoài quỹ VEIL (Vietnam Enterprise Investments Ltd., được thành
lập 1995, qui mô 190 triệu USD) và VGF (Vietnam Growth Fund Limited,
được thành lập 2004, qui mô 75 triệu USD) đã giới thiệu thêm VDF
(Vietnam Dragon Fund, thành lập 2005, qui mô 35 triệu USD). Mekong
Capital mở rộng qui mô với 50 triệu USD cho MEFII (Mekong Enterprise
Fund II).
- Không chỉ có nguồn vốn từ bên ngoài, các công ty quản lý quỹ trong nước cũng hoạt động sôi nổi, với gần 20 công ty quản lý quỹ mới thành lập, và sự chuẩn bị ra đời của nhiều quỹ đầu tư khác trong năm 2008. Nhiều tên tuổi lớn như SSI, FPT, Sabeco đã có sự chuẩn bị cho việc mở quỹ và huy động vốn. Công ty Quản lý Quỹ SSI, trong thời gian rất ngắn, đã nhanh chóng huy động được 1700 tỷ đồng cho quỹ đầu tiên SSIVF
- Không chỉ có nguồn vốn từ bên ngoài, các công ty quản lý quỹ trong nước cũng hoạt động sôi nổi, với gần 20 công ty quản lý quỹ mới thành lập, và sự chuẩn bị ra đời của nhiều quỹ đầu tư khác trong năm 2008. Nhiều tên tuổi lớn như SSI, FPT, Sabeco đã có sự chuẩn bị cho việc mở quỹ và huy động vốn. Công ty Quản lý Quỹ SSI, trong thời gian rất ngắn, đã nhanh chóng huy động được 1700 tỷ đồng cho quỹ đầu tiên SSIVF
Định nghĩa về HF (tạm dịch là quỹ đầu cơ) của Goldman Sachs: “HF là
một tập hợp của nhiều chiến lược đầu tư gồm các mục tiệu mang lại lợi
nhuận lớn và đi kèm với đó là các rủi ro. Một yếu tố chung của HF là sự
tìm kiếm một kết quả khả quan trong mọi tình huống của thị trường”. Để
xác định một quỹ đầu tư là Hedge Fund, chúng ta dựa vào các đặc điểm
chung của HF như sau:
- Mục tiêu hoạt động: hướng tới lợi nhuận tuyệt đối, không phụ thuộc vào xu hướng của thị trường.
- Số lượng thành viên: hạn chế, và thường là các nhà đầu tư có tài sản lớn (nhiều quỹ HF quy định rõ nhà đầu tư muốn tham gia vào HF phải có tối thiểu bao nhiêu tài sản).
- Phần lớn các nhà quản lý đồng thời là thành viên của Quỹ.
- Việc quản lý được thực hiện một cách hết sức chủ động và theo chiến lược đầu tư linh hoạt và rất đa dạng.
- Chứng chỉ quỹ (cổ phiếu) thường không được mua lại vào mọi thời điểm.
- Tính minh bạch không cao.
- Hoạt động không bị ràng buộc bởi các quy định hạn chế.
- Người quản lý thường sử dụng một cách không hạn chế các sản phẩm phái sinh hoặc các kỹ thuật tài chính cho phép họ thực hiện giao dịch “bán khống” và “mua vay”.
- Sử dụng thường xuyên “hiệu quả đòn bẩy” (leverage effect).
- Mục tiêu hoạt động: hướng tới lợi nhuận tuyệt đối, không phụ thuộc vào xu hướng của thị trường.
- Số lượng thành viên: hạn chế, và thường là các nhà đầu tư có tài sản lớn (nhiều quỹ HF quy định rõ nhà đầu tư muốn tham gia vào HF phải có tối thiểu bao nhiêu tài sản).
- Phần lớn các nhà quản lý đồng thời là thành viên của Quỹ.
- Việc quản lý được thực hiện một cách hết sức chủ động và theo chiến lược đầu tư linh hoạt và rất đa dạng.
- Chứng chỉ quỹ (cổ phiếu) thường không được mua lại vào mọi thời điểm.
- Tính minh bạch không cao.
- Hoạt động không bị ràng buộc bởi các quy định hạn chế.
- Người quản lý thường sử dụng một cách không hạn chế các sản phẩm phái sinh hoặc các kỹ thuật tài chính cho phép họ thực hiện giao dịch “bán khống” và “mua vay”.
- Sử dụng thường xuyên “hiệu quả đòn bẩy” (leverage effect).
- Quản lý quỹ đầu tư
- Quản lý danh mục đầu tư Và một số dịch vụ giá trị gia tăng khác như Tư vấn đầu tư, Tư vấn tài chính doanh nghiệp,
- Quản lý danh mục đầu tư Và một số dịch vụ giá trị gia tăng khác như Tư vấn đầu tư, Tư vấn tài chính doanh nghiệp,
Quản
lý danh mục đầu tư chứng khoán là việc công ty quản lý quỹ đầu tư chứng
khoán thực hiện quản lý theo uỷ thác của từng nhà đầu tư trong mua,
bán, nắm giữ chứng khoán.
>> Dịch vụ Tư vấn Đầu tư Chứng Khoán
>> Dịch vụ Tư vấn Đầu tư Chứng Khoán