
Theo
ông, thị trường chứng khoán Thái Lan và Việt Nam có điểm gì khác biệt?
Ông có thể chia sẻ kinh nghiệm đầu tư của mình tại 2 thị trường này?
Tôi bắt đầu đầu tư tại Thái Lan vào năm
1997, với số tiền ban đầu là 300.000 USD. Khi ấy, tôi đã 42 tuổi và nền
kinh tế Thái Lan đang chìm trong khủng hoảng. Thế nhưng, tôi vẫn quyết
tâm mua cổ phiếu và sau 19 năm kiên nhẫn, tài sản của tôi đã lên mức 100
triệu USD vào năm nay.
2 năm trước, tôi đa dạng hóa danh mục
của mình bằng cách đầu tư vào 50 cổ phiếu Việt Nam đang được định giá
thấp. Tôi chọn Việt Nam vì đây là thị trường đang phát triển và có nền
tảng vĩ mô ổn định.Thú thật, thời điểm đó, tôi chọn cổ phiếu đơn thuần
dựa trên định giá thấp mà không để tâm đến các phân tích về ngành hay
doanh nghiệp.
Tiến sĩ Niwes Hemvachiravarakorn
Vì vậy, sau hai năm “để không” 50 cổ
phiếu đã chọn, tôi rất bất ngờ khi nhận ra nhiều doanh nghiệp Việt Nam
trả cổ tức khá cao (khoảng 10% trở lên) so với Thái Lan. Tôi quyết định
thay đổi chiến lược đầu tư có chọn lọc hơn, vì tôi là nhà đầu tư giá trị
và thị trường Việt Nam có nhiều nét giống Thái Lan 20 năm về trước, khi
tôi bắt đầu hành trình đầu tư của mình.
Về điểm khác nhau giữa 2 thị trường,
hiện nay P/E của Việt Nam ở mức 14, trong khi Thái Lan là 16. Là thị
trường cận biên nên Việt Nam có nhiều doanh nghiệp định giá thấp hơn hẳn
so với Thái Lan, những doanh nghiệp lớn của Việt Nam, với mức vốn hóa
500 triệu USD mới ngang ngửa một chuỗi spa tầm trung của Thái.
Tôi đang tích cực kêu gọi các nhà đầu tư
Thái Lan rót vốn vào thị trường Việt Nam ngay bây giờ, để không bỏ lỡ
cơ hội khi cổ phiếu còn rẻ và tiềm năng tăng trưởng của thị trường lớn.
Chuỗi siêu thị BigC Việt Nam đã về tay người Thái
Rất
nhiều tập đoàn Thái Lan như Berli Jucker, SCG hay Central Group đã dồn
dập mua lại các doanh nghiệp Việt Nam. Theo ông, làn sóng này có ảnh
hưởng ra sao đến các nhà đầu tư tài chính tại Thái Lan?
Các tập đoàn Thái Lan đã chủ động đi
trước trong việc thâm nhập thị trường Việt Nam, thông qua việc mua bán
và sáp nhập (M&A) hàng loạt doanh nghiệp Việt. Sở dĩ nhiều tập đoàn
Thái có khả năng “càn quét” như vậy là vì họ có nguồn tiền giá rẻ dồi
dào, được tung ra thị trường nhờ chính sách lãi suất thấp kỉ lục mà Ngân
hàng Trung ương Thái Lan áp dụng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Khi có nguồn tiền lớn trong tay, các
doanh nghiệp Thái tất nhiên sẽ tìm đến các thị trường đang phát triển
nhanh như Việt Nam để đầu tư. Trong khi nền kinh tế Thái đang chững lại
với mức tăng trưởng GDP thấp hơn 3% và dân số đang già hóa, Việt Nam vẫn
duy trì tốc độ tăng trưởng 5 – 6% hàng năm, tầng lớp trung lưu – những
khách hàng tiêu dùng tiềm năng cũng ngày càng gia tăng.
M&A là cách nhanh nhất để doanh
nghiệp Thái Lan thâm nhập thị trường Việt Nam. Các nhà đầu tư tài chính
cũng nhận ra điều này và đang dần theo bước các doanh nghiệp đồng hương.
Theo tôi quan sát, tương tự như các nhà đầu tư chiến lược, đa phần nhà
đầu tư tài chính Thái Lan khá yêu thích cổ phiếu ngành tiêu dùng, bán lẻ
và hạ tầng tại Việt Nam.
Ông có thể chia sẻ về những khó khăn mà nhà đầu tư tài chính Thái Lan thường gặp phải tại thị trường Việt Nam?
Trước hết, doanh nghiệp Việt Nam còn yếu
về mảng quản trị công ty. Tại Thái Lan, những doanh nghiệp lớn đều là
công ty tư nhân do các tỷ phú thành lập và điều hành, họ buộc phải minh
bạch thông tin để gọi vốn. Còn tại Việt Nam, nhiều cái tên lớn trên sàn
chứng khoán là doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa, phần vốn Nhà nước
nắm giữ còn lớn, lãnh đạo doanh nghiệp chưa quen với các tiêu chuẩn quản
trị công ty hiện đại và chưa cởi mở với nhà đầu tư bên ngoài.
Để nâng cáo tính minh bạch của thị
trường, các thành viên hội đồng quản trị và ban giám đốc doanh nghiệp
tại Thái Lan đều phải tham gia học viện đào tạo về quản trị công ty. Tôi
nghĩ Việt Nam nên thành lập một cơ sở đào tạo tương tự để giúp lãnh đạo
doanh nghiệp làm quen với thông lệ quốc tế về quản trị.
Ngoài ra, các nhà đầu tư Thái Lan gặp
vướng mắc khi doanh nghiệp Việt Nam ít công bố thông tin bằng tiếng Anh
trực tiếp đến nhà đầu tư, để công ty chứng khoán làm thay mình. Nếu
doanh nghiệp muốn thu hút vốn nước ngoài, việc chủ động cập nhật thông
tin bằng tiếng Anh là điều cần làm.
Bên cạnh đó, vấn đề room ngoại cũng là
rào cản, khi mà phần lớn các doanh nghiệp niêm yết vẫn chưa nới trần sở
hữu nước ngoài dù đã được “mở đường” từ cả năm trước.