Kiến thức chứng khoán - Kinh nghiệm đầu tư chứng khoán

Hiển thị các bài đăng có nhãn nhà kinh tế học. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn nhà kinh tế học. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 12 tháng 10, 2017

Đây là lý do tại sao ai cũng cần biết về người được nhận giải thưởng Nobel Kinh tế học 2017

Hôm qua, giải Nobel Kinh tế 2017 đã được trao cho Richard Thaler vì những đóng góp của ông cho ngành kinh tế học hành vi. 

Richard Thaler được xem như cha đẻ của bộ môn kinh tế học hành vi - về cơ bản nghiên cứu tại sao con người không đưa ra quyết định như cách các nhà kinh tế học giả định. Đóng góp của ông đã thực hiện được điều mà các nhà kinh tế từ trước đến nay đều lãng quên: đưa yếu tố con người vào các nghiên cứu kinh tế. Trong khi các nghiên cứu kinh tế thường được xây dựng dựa trên điều kiện con người lý tưởng thì con người trong thực tế thường hành động phi lý.

Công trình nghiên cứu của ông Thaler đã đem đến một sự đổi mới từ cách chính phủ cung cấp dịch vụ công đến cách tạo ra các chương trình nghỉ hưu mà con người thực tế sử dụng. Nhận thức được những gì mà ông Thaler làm và lý do tại sao ông lại là chủ nhân của giải Nobel kinh tế năm nay sẽ giúp bạn - cũng như phần còn lại của thế giới - hiểu bản chất tự nhiên của việc đưa ra quyết định và lý do tại sao chúng ta làm những việc chúng ta làm.

Trước Thaler, các nhà kinh tế thường đơn giản hóa hành vi, cho rằng con người thường đưa ra quyết định để tối đa hóa lợi ích. Nói cách khác, tất cả các mô hình kinh tế từ trước đến nay thường được xây dựng dựa trên giả định con người sẽ đưa ra quyết định tốt nhất cho bản thân họ. Đó là một trong những lý do tại sao các mô hình kinh tế lại trở thành phi lý khi áp dụng vào thực tế.

Xây dựng dựa trên nghiên cứu của 2 nhà tâm lý học huyền thoại người Israeli - Daniel Kahneman và Amos Tversky, Thaler đã chỉ ra rằng con người không phải lúc nào cũng có những quyết định đúng đắn và lý trí. Ví dụ: con người thường đánh giá thấp thứ họ đã có hơn là thứ họ chưa có. Mặc dù không có lý do chính đáng cho lối tư duy này, đó là cách phổ biến và giải thích được lý do thị trường hoạt động.

Đây chỉ là một ví dụ nhỏ trong số những vấn đề thuộc kinh tế học hành vi mà các nhà nghiên cứu vẫn đang tiếp tục thực hiện các nghiên cứu quan trọng. Có 3 mảng chủ đề chính mà kinh tế học hành vi tập trung khai thác đó là:

Khám phá (Heuristics): con người thường đưa ra quyết định dựa trên trực giác, không bám sát các phân tích hợp lý.

Bối cảnh (Framing): tập hợp của các giai thoại và các khuôn mẫu tạo nên bộ lọc cảm xúc tinh thần các cá nhân dựa vào để hiểu và đáp ứng các sự kiện.

Những kết quả không tối ưu của thị trường (Market Inefficiencies): bao gồm các đánh giá saira quyết định không hợp lý.

Một số nghiên cứu trong tâm lý học hành vi vạch trần những sự thực "đau lòng", nhưng đó là lý do tại sao nghiên cứu của Thaler quan trọng đến vậy - đôi khi chìa khóa để hiểu thế giới nằm ngay trước mặt chúng ta. Hướng dẫn con người thực hiện đúng đắn đôi khi còn khó hơn cả chờ đợi họ tự lựa chọn đúng đắn cho bản thân mình.

Trong một buổi phỏng vấn, Thaler nói với công ty tư vấn McKinsey rằng: "Nếu bạn muốn mọi người ăn thực phẩm lành mạnh hơn, hãy để đồ ăn tốt cho sức khỏe vào quầy bar và hãy để họ tự tìm kiếm một cách dễ dàng, khi đó họ sẽ thấy đồ ăn ngon hơn là tự tay chỉ cho họ thấy hoặc nói cho biết phải làm gì".

Nghe có vẻ hiển nhiên nhưng khái niệm đơn giản này của Thaler đã truyền cảm hứng cho một loạt các chính sách, trong đó bao gồm kế hoạch cung cấp chương trình nghỉ hưu tự động cho những người làm việc tại các công ty tư nhân ở California.

Kinh tế học hành vi - giống như tất cả các lĩnh vực nghiên cứu mới mẻ đều phải trải qua một giai đoạn hoài nghi trước khi được nổi lên và công nhận chính thức. Thắng lợi của Thaler tại giải Nobel năm nay không chỉ là sự khẳng định tên tuổi của bản thân ông mà còn cho ngành kinh tế học hành vi. Ngày trước, cuộc tranh luận giữa Thaler và các nhà kinh tế đương thời của ông chỉ về vấn đề kinh tế học hành vi có quan trọng hay không. Nhưng ngày nay, họ sẽ phải nói về các lý thuyết của kinh tế học hành vi thay vì nghi vấn về tính cấp thiết của nó.

Điều này sẽ không xảy ra nếu không có chiến thắng của Thaler. Khi được hỏi ông sẽ chi tiêu 9 triệu kronor (khoảng 1,11 triệu USD) tiền thưởng vào việc gì, Thaler đã bông đùa điệu nghệ rằng: "Tôi sẽ tiêu nó theo cách vô lý nhất có thể".


Theo Trí thức trẻ/Mashable
Share:

Thứ Tư, 4 tháng 10, 2017

Dấu chấm hết cho thời của những nhà kỹ trị?

Ngày 6/9 vừa qua, Fischer – người được coi là có thể kế tục phần nào sự nghiệp của Keynes – vừa thông báo ông sẽ rời khỏi chiếc ghế Phó Chủ tịch Fed. The Economist cho rằng đây có thể là sự kiện đặt dấu chấm hết cho thời kỳ của những nhà kỹ trị. 

 
Năm 2004, Stanley Fischer đã nhớ lại và miêu tả “phép màu” mà ông cảm nhận được khi là 1 sinh viên chuyên ngành kinh tế trong những năm 1960. “Bạn có một loạt các phương trình và điều đó đồng nghĩa bạn có thể kiểm soát cả nền kinh tế”. Chính phủ kỹ trị - ước mơ về 1 Chính phủ được điều hành bởi một nhóm các chuyên gia uyên bác – bắt đầu nổi lên kể từ thế kỷ 20, trong bối cảnh những thay đổi chóng mặt trên mọi phương diện khiến thế giới trở nên phức tạp một cách khó hiểu. Trong kinh tế, làn sóng này mạnh mẽ nhất trong những năm 1930, với cuộc cách mạng trong điều hành chính sách kinh tế mà Keynes tạo ra.

Tuy nhiên, ngày 6/9 vừa qua, sau khi đã có 1 sự nghiệp xuất sắc, Fischer – người được coi là có thể kế tục phần nào sự nghiệp của Keynes – vừa thông báo ông sẽ rời khỏi chiếc ghế Phó Chủ tịch Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed). The Economist cho rằng đây có thể là sự kiện đặt dấu chấm hết cho thời kỳ của những nhà kỹ trị.

Cách đây 1 thế kỷ, khi mà các nhà vật lý khám phá ra những bí mật của nguyên tử và các nhà hóa sinh tìm hiểu về yếu tố cơ bản của sự sống, các nhà kinh tế học đang bận rộn sắp xếp lại lĩnh vực của mình. Nhưng sự phức tạp ngày càng tăng lên trong công việc của họ gây ra 1 rắc rối: những người không chuyên sẽ không thể hiểu hết. Nhóm chuyên gia tư vấn có ý nghĩa quan trọng đối với công tác quản lý nền kinh tế. Tầm ảnh hưởng của họ càng tăng lên trong thời kỳ chiến tranh.

Trong những năm sau chiến tranh thế giới thứ hai, khi Fischer mới chỉ là 1 cậu bé sống ở vùng đất mà ngày nay là Zambia, quyền lực của các nhà kỹ trị được tăng cường bằng những định chế siêu chính phủ như World Bank và IMF hay những hội đồng cố vấn kinh tế sử dụng những phương trình của Keynes để đưa ra dự báo và chính sách điều hành nền kinh tế.

Nhưng những hệ thống này lại có lỗ hổng và rắc rối bắt đầu xuất hiện từ những năm 1970. Tăng trưởng giảm tốc, các đồng tiền chao đảo và lạm phát tăng cao khiến những ý tưởng của Keynes bị hoài nghi. Robet Lucas là người tiên phong thách thức các cơ sở của lý thuyết kinh tế vĩ mô vốn trước đó bị chi phối bởi các phương pháp tiếp cận theo kinh tế học Keynes. Theo ông, một loạt các chính sách kích thích kinh tế có thể khiến mọi người lầm tưởng rằng nền kinh tế đang hoạt động tốt hơn so với thực tế nhưng kỳ thực là lạm phát tăng chứ không phải tăng trưởng được tạo ra.

Fischer chính là người “hồi sinh” phong trào giao nhiệm vụ quản lý cho các nhà kỹ trị. Trung tâm của làn sóng này là Học viện công nghệ Massachusetts (MIT), cái nôi của nhiều nhà lãnh đạo nổi tiếng như Paul Samuelson, Rudiger Dornbusch và những học thuyết Keynes mới. Fischer cùng với những người khác đã phát hiện ra những thời điểm mà 1 sự can thiệp khéo léo có thể đem lại nhiều tác động tích cực. ví dụ, năm 1977, ông cho rằng các hợp đồng dài hạn sẽ ngăn cản giá cả và tiền lương nhanh chóng thích nghi với những thay đổi trong nền kinh tế. Những biến động này có thể dẫn đến gia tăng tỷ lệ thất nghiệp trừ khi các nhà kinh tế học được trao quyền điều hành chính sách. Các nhà kinh tế học theo trường phái Keynes mới đã trở thành Thống đốc NHTW và bộ trưởng Tài chính ở nhiều quốc gia trên khắp thế giới.

Có thể kể đến những cái tên như Ben Bernanke, người đã điều hành Fed trong suốt thời kỳ khủng hoảng tài chính và tung ra 3 gói nới lỏng định lượng; Mario Draghi, người hiện vẫn là Chủ tịch NHTW châu Âu (ECB), Olivier Blanchard, chuyên gia kinh tế trưởng tại IMF vừa nghỉ hưu và người kế nhiệm Maurice Obstfeld. Đây là những người đàn ông đặt nền móng cho kinh tế vĩ mô hiện đại, sau đó áp dụng chúng trong thế giới thực.

Đó chính là con đường mà Fischer đã đi. Cuối những năm 1980, ông gia nhập World Bank với chức vụ chuyên gia kinh tế trưởng, nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế và những sai lầm trong chính sách có thể ngăn cản đà tăng trưởng. Sau đó ông trở thành phó giám đốc IMF, đứng ở trung tâm các trận chiến chống lại khủng hoảng tài chính trong những năm 1990. Sau 1 thời gian làm ở Citigroup, ông lại về điều hành NHTW Israel và chèo lái nền kinh tế này đi qua suy thoái. Năm 2014, cựu Tổng thống Obama bổ nhiệm ông vào vị trí Phó Chủ tịch Fed.

Fischer thường xuyên phải đối mặt với những áp lực khủng khiếp. Trong những năm 1990, IMF bị chỉ trích nặng nề về những điều kiện mà nó áp dụng lên những quốc gia đi vay vốn đang gặp nhiều khó khăn. Nhưng đó là 1 lựa chọn khó khăn bởi các nước có thể dễ thở hơn với những điều khoản hào phóng nhưng sẽ rất dễ mắc sai lầm trong chi tiêu và đẩy chính IMF vào tình thế khó khăn.


Bernanke và Draghi cũng không tránh khỏi những lời chỉ trích từ những người không hài lòng với cách điều hành chính sách tiền tệ của họ, nhưng nhìn chung thì họ đều được đánh giá là đã vực dậy nền kinh tế Mỹ và châu Âu từ thảm họa

Dẫu vậy, nhìn khắp thế giới ở thời điểm hiện tại sẽ thấy các nhà kỹ trị đang dần lùi vào phía sau cánh gà. Tầm ảnh hưởng của World Bank, IMF và các định chế tài chính quốc tế khác đang suy giảm. Những nước đứng sau (mà đặc biệt là Mỹ) dường như đang quay lưng với sứ mệnh quốc tế. Trong khi đó Trung Quốc đang xây dựng những định chế cạnh tranh với World Bank và IMF để phục vụ tham vọng nâng tầm ảnh hưởng về địa chính trị. Ở châu Âu, thái độ thiếu ủng hộ của Đức đe dọa đến tầm ảnh hưởng của ECB.

Thực ra thì nguyên nhân dẫn đến tình trạng này một phần là do sự thất bại của giới học thuật. Không phải lúc nào các phép toán và lý thuyết kinh tế cũng sát với thực tế và dễ hiểu. Các chuyên gia dự báo của IMF gần như không thể nhìn thấy suy thoái đang đến gần, Fed liên tục dự báo quá đà về nguy cơ lạm phát tăng. Bản thân chủ nghĩa Keynes mới cũng đối mặt với những mâu thuẫn nội bộ với các tranh cãi về thâm hụt ngân sách hay hiệu quả của chính sách tiền tệ khi lãi suất ở mức gần 0.

Tuy nhiên, mối đe dọa lớn nhất đối với các nhà kỹ trị lại nằm ở yếu tố cơ bản quan trọng nhất mà họ luôn tuân theo: những quyết định phức tạp phải được đưa ra một cách độc lập, không bị ảnh hưởng bởi các chính trị gia. Khi những rắc rối vượt ngoài khả năng kiểm soát của họ xuất hiện – là 1 cuộc khủng hoảng ngân hàng trên phạm vi toàn cầu hoặc nền kinh tế không thể thoát khỏi giảm phát, niềm tin của công chúng vào những nhà kỹ trị suy giảm nặng nề. 


>> Stan Fischer - Dấu gạch nối của 2 trường phái kinh tế 

Theo Trí thức trẻ/Economist
Share:

Thứ Năm, 25 tháng 5, 2017

Tưởng nhớ John Nash - "Tâm hồn đẹp" thổi hồn cho lý thuyết trò chơi

Những gì thiên tài toán học John Nash khai phá về lý thuyết trò chơi được đánh giá là một trong những ý tưởng mang tính cách mạng của thế kỷ 20.

Có lẽ, cái tên John Nash được biết đến nhiều nhất là qua bức chân dung được diễn viên Russell Crowe thể hiện một cách xuất sắc trong bộ phim “A Beautiful Mind”. Thiên tài John Nash không chỉ giỏi về toán học mà còn là người có đóng góp lớn trong lĩnh vực kinh tế học. Năm 1994, ông cùng với 2 học giả khác bước lên bục nhận giải Nobel kinh tế với công trình nghiên cứu về lý thuyết trò chơi – lý thuyết giúp các cá nhân và doanh nghiệp hiểu rõ quyết định của họ sẽ tác động đến quyết định của người khác như thế giới.

Cách đây đúng 2 năm, vào ngày 23/5/2015, John Nash (86 tuổi) và vợ đã cùng thiệt mạng trong 1 vụ tai nạn xe hơi ở New Jersey, khi đang trên đường từ sân bay về nhà sau chuyến đi tới Na Uy để nhận giải Abel – một trong những giải thưởng vinh quang nhất của lĩnh vực toán học. Ông được trao giải vì những nghiên cứu về “lý thuyết phương trình đạo hàm riêng phi tuyến và các ứng dụng của nó trong giải tích hình học” (ông chia sẻ giải này với giáo sư Louis Nirenberg của ĐH New York).

Xét riêng trong phạm trù toán học, lĩnh vực mà Nash quay sang chú ý sau khi hoàn thành công trình nghiên cứu về lý thuyết trò chơi vào đầu những năm 1950, các lý thuyết này được sử dụng để phân tích các hình học trừu tượng. Chúng có thể khiến những người ngoại đạo cảm thấy khó hiểu, nhưng không có các phương trình này, chúng ta sẽ không thể hiểu về dòng chảy của các chất lỏng, các phản ứng hóa học hoặc trọng lực. Ngày nay, các kỹ sư không thể tưởng tượng họ sẽ làm việc như thế nào nếu không có lý thuyết của Nash.

Tương tự như vậy, lý thuyết trò chơi cũng mang đậm màu sắc toán học nhưng được có tính ứng dụng rất cao. Lý thuyết trò chơi (game theory) được công nhận đầu tiên trong cuốn “Theory of Games and Economic Behaviour” (tạm dịch: Lý thuyết trò chơi và hành vi kinh tế” được xuất bản năm 1944, của hai tác giả John von Neumann (1 nhà toán học) và Oskar Morgenstern (1 nhà kinh tế học). Tuy nhiên, hai tác giả này chỉ tập trung hạn hẹp ở các “trò chơi có tổng bằng 0” (zero-sum games), trường hợp mà người này được thì người kia sẽ mất, và “trò chơi hợp tác” là trường hợp mà các bên sẽ thỏa thuận với nhau. Cả hai trường hợp này đều không phù hợp với những tình huống thú vị hơn nhiều trong thực tế.

Nash đã loại bỏ những giới hạn này và “giải phóng” tiềm năng của lý thuyết trò chơi. Đáng chú ý hơn cả, ông làm được điều đó chỉ trong 4 nghiên cứu hết sức cô đọng xúc tích (mỗi nghiên cứu dài không quá 12 trang). Kết quả quan trọng nhất là ông đã đưa ra được bằng chứng chứng minh rằng trong bất kỳ trò chơi nào, cho dù số lượng người chơi là bao nhiêu, mỗi người sẽ có 1 chiến lược phù hợp với bản thân mà anh ta sẽ không bao giờ thay đổi, miễn là các người chơi khác cũng bám chặt lấy chiến lược của họ.

Ngày nay, “điểm cân bằng Nash” được hiểu nôm na là điểm mà mỗi người chơi đều đưa ra quyết định có lợi cho bản thân mình nhất, dựa trên suy đoán về những điều người khác sẽ làm. Khái niệm này không chỉ bó hẹp trong các cuốn sách kinh doanh và kinh tế. Rất nhiều hiện tượng xảy ra trong đời sống hàng ngày được cho là dựa trên nguyên tắc của lý thuyết trò chơi.

Tuy nhiên, thời kỳ cuối những năm 1950, các nhà nghiên cứu không hứng thú với lý thuyết trò chơi vì không thể điều chỉnh lý thuyết của Nash cho phù hợp với tâm lý con người. Những người phê phán cho rằng Nash đã giả định người chơi sẽ phải chọn lựa ngẫu nhiên bộ chiến lược trong khi trên thực tế con người hiếm khi dựa vào may rủi khi quyết định. Thay vì tung đồng xu để quyết định sẽ làm gì tiếp theo, hầu hết mọi người dựa vào những lý do được rút ra sau khi phân tích tình hình kỹ càng.

Khi mọi người quay lưng, Nash quay sang nghiên cứu hình học.
Đến những năm 1970, John Maynard Smith, 1 nhà sinh vật học người Anh, cho rằng lý thuyết của Nash có thể áp dụng trong các nhóm điển hình chứ không phải cá nhân. Ví dụ, trong cuộc cạnh tranh tìm bạn tình, một số con nai đực ương bướng sẽ có xu hướng lùi lại khi đối mặt với nguy cơ bị thương (hãy gọi những con này là nhóm bồ câu), trong khi những con khác (tạm gọi là nhóm diều hâu) sẽ luôn tấn công dù có nguy cơ bị thương. Sự kết hợp giữa hai nhóm sẽ tạo thành sự ngẫu nhiên bất cứ khi nào nai đực đối mặt với 1 con nai khác.

Sự lựa chọn của tự nhiên sẽ tạo thành 1 chiến lược mà nếu như hầu hết các thành viên đều áp dụng thì các chiến lược khác sẽ không thể xảy ra. Những “chiến lược tiến hóa bền vững” này tồn tại ở tất cả các hệ sinh thái và cũng là 1 trường hợp đặt biệt của điểm cân bằng Nash.

Có thể Maynard Smith đã đi đến lời giải thích này 1 cách hoàn toàn độc lập, nhưng Nash đã ám chỉ điều này từ 20 năm trước. Ở đoạn cuối của luận án tiến sĩ chưa từng được xuất bản của Nash ở Princeton (1 bản luận văn chỉ dài khoảng 30 trang tính cả nội dung và lời đề tựa), Nash lưu ý rằng có thể hiểu điểm cân bằng của trò chơi giống như hành vi trung bình của 1 nhóm cá thể. Giống như ví dụ của Maynard Smith đưa ra những lựa chọn ngẫu nhiên, con người cũng hành xử theo nhiều cách không thuận theo lý trí.

Khi luận án này của Nash được “đào xới” vào đầu những năm 1990, ngay trước khi ông đạt giải Nobel, công trình của Maynard Smith thường xuyên được nhắc đến. Dẫu vậy, Peyton Young (hiện đang làm việc tại ĐH Oxford) cho biết bản luận án của Nash vẫn khiến cộng đồng những người nghiên cứu về lý thuyết trò chơi dậy sóng. Cho đến bây giờ Young vẫn sử dụng các công cụ của Nash để phát triển các chiến lược cho những “người chơi” không có lý trí như những turbine gió trên cánh đồng sản xuất điện gió.

Chỉ bằng vài phương trình và một vài trang viết ngắn gọn, John Nash đã thành công trong việc nắm bắt nhiều mặt của thế giới phức tạp và còn truyền cảm hứng cho trí tưởng tượng của nhiều thế hệ học giả sau này.

>> Chuyện hai tù nhân và những ứng dụng lý thú của kinh tế học trong cuộc sống

Theo Trí thức trẻ/Economist
Share:

Thứ Sáu, 4 tháng 10, 2013

Stan Fischer - Dấu gạch nối của 2 trường phái kinh tế

Stanley Fischer, người trong tháng 2 vừa qua vừa thông báo sẽ thôi giữ chức Thống đốc NHTW Israel, là một trong những nhà kinh tế học xuất sắc nhất còn sống trên thế giới. 


Tháng 8 hàng năm, các thống đốc NHTW trên khắp thế giới tụ họp tại vườn quốc gia Grand Teton ở Wyoming và thảo luận các chuyên đề kinh tế vĩ mô. Cách đây một vài năm, tại một trong những bữa tiệc tối, Thống đốc Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) Ben Bernanke nhìn vào một vài đồng nghiệp xuất sắc trong ngành tài chính và đưa ra câu hỏi: "Các ông có biết tất cả mọi người trên bàn tiệc này đều có 1 điểm chung?”.  “Tất cả đều có người hướng dẫn luận văn tốt nghiệp là Stan Fischer”, Bernanke trầm ngâm. 

Stanley Fischer, người trong tháng 2 vừa qua vừa thông báo sẽ thôi giữ chức Thống đốc NHTW Israel, là một trong những nhà kinh tế học xuất sắc nhất còn sống trên thế giới. 

Là một giáo sư công tác tại Học viện công nghệ Massachusetts MIT, ông là người đặt nền móng cho hệ tư tưởng kinh tế học thống trị nhiều nền kinh tế. Ông cũng là cố vấn cho một đội ngũ sinh viên hùng hậu gồm nhiều “ngôi sao sáng” đang ngồi ở các vị trí cấp cao và hoạch định chính sách của các nền kinh tế lớn. Có thể kể ra những cái tên nổi bật như Chủ tịch Fed Ben Bernanke, Chủ tịch NHTW Châu Âu ECB Mario Draghi và cựu chuyên gia kinh tế trưởng của Nhà trắng Greg Mankiw. 

Với vị thế là quan chức có vị trí quan trọng số 2 ở Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, ông đã giúp đỡ các nền kinh tế châu Á vượt qua khủng hoảng năm 1998. Với cương vị là Chủ tịch Citigroup, ông điều hành tất cả các công việc liên quan đến các khách hàng đến từ khu vực công. Khi đó, Citigroup là ngân hàng lớn nhất thế giới. 

Và, năm 2005, Phó Thủ tướng Israel Ariel Sharon cùng với Bộ trưởng Tài chính Benjamin Netanyahu đã chọn ông làm người dẫn dắt NHTW Israel – quốc gia mà trước đó ông mới chỉ đặt chân đến 1 lần. Tuy nhiên, những thành tựu mà Fischer đem lại là quá đủ để xua tan mọi nghi ngờ. Không có quốc gia phương Tây nào ứng phó với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu giai đoạn 2008 – 2009 tốt hơn Israel. Nền kinh tế Israel chỉ suy giảm đúng 1 quý (giảm 0,2% trong quý II/2009). Trong khi đó, kinh tế Mỹ suy giảm tới 4,6% trong cùng kỳ.  Tình hình ở rất nhiều quốc gia, trong đó có cả Anh và Đức, thậm chí còn tồi tệ hơn. 

Sẽ không phải là phóng đại khi cho rằng người Israel tôn sùng Stan Fischer. Sau khi ông thông báo về quyết định từ chức, phóng viên Meirav Arlosoroff của nhật báo Haaretz miêu tả Fischer là “vị lãnh đạo mà công chúng Israel hoàn toàn tin tưởng”.  Cả Bộ trưởng tài chính Netanyahu và vị lãnh đạo đối lập Shelly Yachimovich đều hết sức tự hào về ông.

Ở tuổi 69, Fischer dường như vẫn đang có sức khỏe tốt. Vào tháng 1/2014, người học trò Bernanke của ông sẽ rời khỏi chiếc ghế thống đốc Fed. Liệu Fischer có chuyển từ Jerusalem về Washington hay không? Điều này nghe có vẻ điên rồ nhưng cũng không phải không có tiền lệ. Tháng 11 năm ngoái, Thống đốc NHTW Canada Mark Carney đã chiến thắng trong cuộc đua và trở thành người lãnh đạo của NHTW Anh. Trong thời kỳ hậu khủng hoảng hiện nay, nước Mỹ cần tới 1 thống đốc NHTW hội tủ đầy đủ phẩm chất của 1 nhà kinh tế học đầy sáng suốt, một nhà quản lý, nhà ngoại giao và cả 1 chính trị gia. Fischer là ứng viên sáng giá cho vị trí này. 

San bằng khoảng cách

Stan Fischer được sinh ra tại Mazabuka, một thị trấn nhỏ ở miền Bắc Rhodesia (hiện là Zambia). 13 tuổi, ông chuyển tới Nam Southern Rhodesia (nay là Zimbabwe) và sống ở đây cho đến khi theo học tại Trường kinh tế London (LSE).  

Ban đầu, Fischer có ý định theo học ngành hóa học. Tuy nhiên, những năm tháng cuối cùng ở Zimbabwe giúp ông phát hiện ra kinh tế mới là niềm đam mê.  Anh trai của 1 người bạn của ông vừa trở về từ LSE và dạy cho ông một số bài học về kinh tế. Fischer thực sự ấn tượng với  Paul Samuelson — vị giáo sư nổi tiếng đã từng đạt giải Nobel của MIT. 

Cùng thời gian đó, Fischer đọc cuốn “The General Theory of Employment, Interest, and Money” (tạm dịch: Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ) của John Maynard Keynes. 

Sau đó Fischer tới MIT để học tiến sĩ, lấy bằng 3 năm sau đó và làm công việc trợ giảng tại đại học Chicago. Khi Fischer tới Hyde Park năm 1969, ông chứng kiến cuộc tranh cãi nảy lửa giữa 1 bên là các trường ở Chicago cùng các trường ở quanh khu vực Great Lakes (Carnegie Mellon hay đại học Minnesota) với 1 bên là các trường hùng mạnh ở ven biển như đại học California, Harvard, và đặc biệt là MIT. 

Mâu thuẫn bắt đầu khi Robert Lucas - một trong những đồng nghiệp của Fischer ở trường Chicago – lên tiếng chỉ trích học thuyết Keynes. Theo Lucas, trường phái kinh tế học Keynes đã phân chia kinh tế học thành 2 bộ phận: kinh tế vi mô và kinh tế học vĩ mô. Trong khi kinh tế học vi mô thừa nhận người tiêu dùng và các doanh nghiệp thực hiện các lựa chọn kinh tế với mục đích tối ưu hóa lợi ích của họ, kinh tế học vĩ mô cho rằng sự biến động của nền kinh tế chính là hệ quả của những lựa chọn từ các chủ thể trên. Khi người tiêu dùng và doanh nghiệp hoảng loạn ngừng chi tiêu, suy thoái kinh tế xảy ra. Một khi họ bình tâm lại, nền kinh tế sẽ phục hồi.  

Tuy nhiên, Lucas cho rằng điều này là vô nghĩa. Tại sao lựa chọn dễ biến đổi của các cá nhân lại có thể tạo nên sự thay đổi đối với toàn bộ nền kinh tế? Các học thuyết theo trường phái Keynes đã gặp nhiều khó khăn khi không giải thích được tình trạng nền kinh tế tăng trưởng chậm nhưng lạm phát lại ở mức cao của thời kỳ những năm 1970. 

Khi đó, Fischer là một trong số ít nhân vật có thái độ chân thành với cả 2 bên. Ông đang ở Chicago khi Lucas đưa ra những lời chỉ trích nhưng vẫn có Samuelson (giáo sư của MIT) trong hội đồng phản biện luận văn. Năm 1972, ông trở thành đồng nghiệp của Samuelson. Các sinh viên nhớ về Fischer với vai trò là nhà ngoại giao khá xuất sắc trong cuộc chiến này. 

Ngày nay, nỗ lực gắn kết cả 2 cách tiếp cận của Fischer được biết đến với tên gọi "kinh tế học Keynes mới". Đây là cách tiếp cận được sử dụng rộng rãi ở hầu khắp các viện nghiên cứu kinh tế trên thế giới. Học thuyết này cũng gắn liền với những tên tuổi nổi tiếng như Mankiw, Bernanke, chuyên gia kinh tế trưởng của IMF Olivier Blanchard... 

Fischer đã viết nên một trong số những nghiên cứu đầu tiên bao hàm cả yếu tố giá cả cứng nhắc và kỳ vọng hợp lý. Theo học thuyết này, vì thị trường có tình trạng cạnh tranh không hoàn hảo, nên dù thị trường có biến động thì chưa chắc các doanh nghiệp đã thay đổi giá bán của mình. Lý do là chi phí để điều chỉnh thông báo về giá bán (giống như chi phí in lại thực đơn) có thể cao hơn lợi ích mà doanh nghiệp thu được do điều chỉnh giá. 

Cuối những năm 1970, ông đã giới thiệu cuốn "A Monetary History of the United States" (tạm dịch: Lịch sử tiền tệ nước Mỹ) cho nghiên cứu sinh đang được ông hướng dẫn làm luận văn tiến sĩ xem xét cuốn của 2 tác giả Friedman và Anna Schwartz. Cuốn sách này cho rằng đáng lẽ Fed đã có thể giảm bớt sức tàn phá của Đại khủng hoảng nếu như thực hiện chính sách tiền tệ quyết liệt hơn. 

Và, người nghiên cứu sinh ấy chính là Ben Bernanke. Bernanke cho biết nhờ Fischer mà ông nhận ra rằng chính sách tiền tệ đóng vai trò rất quan trọng. Và, vị Chủ tịch của Fed đã bơm hàng tỷ USD vào nền kinh tế lớn nhất thế giới để có thể tránh được kịch bản giống như đại suy thoái. Ông học được điều ấy từ Friedman và Schwartz, thông qua Fischer.
Theo Trí thức trẻ/Washingtonpost

Share:

Trang

Nổi bật

Giới siêu giàu kiếm tiền từ đâu?