Khi biết tôi có ý định trở lại VN,
nhiều người trong gia đình tôi phản đối dữ lắm. Nhưng tôi vẫn quyết tâm
về. Tôi nghĩ: đất nước nào cũng có các chương lịch sử nhưng dân tộc và
nhân dân vẫn vượt lên tất cả.
>> Chuyện đời Paul Trần Văn Thình (1)
>> Những năm đầu ở Pháp của Paul Trần Văn Thình (2)
>> Chuyện đời Paul Trần Văn Thình (1)
>> Những năm đầu ở Pháp của Paul Trần Văn Thình (2)
Ông Trần Văn Thình và vợ - bà Brigitte - trong một lần về thăm quê năm 1992. Ảnh: Tuổi Trẻ.
|
Sau
chuyến trở về VN lần đầu tiên năm 1988, một sự gắn bó máu thịt với VN
bền chặt thúc giục chúng tôi tiến hành những chuyến trở về khác. Chúng
tôi về VN bất cứ khi nào có thể, mỗi năm một hai lần.
Năm 1947, lúc còn học ở thị trấn Chambon sur Lignon,
tôi không quản đường xa xin đi nhờ ôtô từng đoạn đến Paris để được gặp
Cụ Hồ Chí Minh khi Người sang Pháp dự hội nghị Fontainbleau. Tôi có một
người cậu kết nghĩa tên Nguyễn Văn Chỉ, đảng viên đảng Cộng sản Pháp, là
bạn học của cha tôi, từng tham gia kháng chiến chống phát xít Đức. Vợ
cậu, Francois Corest, phóng viên báo Humanité, quen biết và có thiện cảm
đặc biệt với ông Phạm Văn Đồng. Bà kể với tôi về ông Đồng: “Ông ấy là
người tuyệt vời, nói tiếng Pháp rất chuẩn và trau chuốt. Đặc biệt, ông
ấy rất đẹp trai”. Chính bà đã đưa tôi tham gia đoàn Việt kiều đến
Fontainbleau gặp Cụ Hồ.
Vào khoảng năm 1986, Bộ Thương mại VN thông qua phái
đoàn thường trực VN bên cạnh Liên Hợp Quốc tại Geneva (Thụy Sĩ) chuyển
lời mời tôi về VN để đánh giá tình hình kinh tế và tư vấn cho các chính
sách đổi mới kinh tế đang manh nha bắt đầu. Có lời mời này là bởi ông Lê
Đình Cận, tham tán công sứ của VN lúc đó, có báo cáo về nước trường hợp
của tôi. Khi đó, tôi cũng đã triển khai một vài hoạt động trợ giúp phái
đoàn của VN tại Geneva. Ông Phạm Văn Đồng, trong vai trò cố vấn, lập
tức chỉ thị Bộ Thương mại mời tôi về.
Nhận được lời mời, tôi hơi lưỡng lự vì quả thật thông
tin về VN hồi đó còn hạn chế. Do đó tôi còn vài điều e ngại. Hai năm
sau, một lần nữa lời mời về VN lại được chuyển tới tôi, lần này là do Bộ
trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch đích thân đề xuất theo gợi ý của
Bộ trưởng Ngoại giao Pháp Claude Cheysson, một người bạn của tôi.
Khi biết tôi có ý định trở lại VN, nhiều người trong
gia đình tôi phản đối dữ lắm. Nhưng tôi vẫn quyết tâm về. Tôi nghĩ: đất
nước nào cũng có các chương lịch sử nhưng dân tộc và nhân dân vẫn vượt
lên tất cả.
Vậy là mùa hè năm 1988, tôi về thăm lại quê hương VN
thân thương sau 41 năm xa cách. Tôi và vợ tôi - Brigitte - bước lên máy
bay với nhiều cảm xúc trộn lẫn trong lòng, vừa mừng vui vừa hồi hộp.
Về VN theo lời mời của Chính phủ VN nhưng tôi và vợ tự
lo liệu chi phí chuyến đi. Hiểu tình hình khó khăn của đất nước, tôi
không về tay không. Hành lý của chúng tôi gồm năm chiếc máy vi tính nhỏ
đời đầu của Pháp. TP.HCM lúc ấy đang có ý định thành lập thư viện điện
tử nên tôi mang máy tính về tặng để giúp mọi người làm công việc thống
kê.
Ông Trần Văn Thình (phải) đến thăm Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ảnh: Tuổi Trẻ.
|
Trong
thời gian ở VN, tôi cũng không gặp gỡ bất cứ đại sứ châu Âu nào tại Hà
Nội theo như phép tắc ngoại giao thông thường. Điều này khiến chuyến đi
của tôi bị nhiều người chỉ trích. Nhiều đại sứ châu Âu gửi điện đến Bộ
Ngoại giao Pháp đặt dấu hỏi về chuyến đi của tôi. Ông Claude Cheysson,
bộ trưởng ngoại giao, trả lời: “Ông ấy là một công chức. Ông ấy có quyền
tự do đi nghỉ hè”. Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch cũng trả lời tương tự đối
với những thắc mắc từ phía VN.
Trong chuyến về thăm đất nước đầu tiên này, tôi có dịp
gặp gỡ nhiều lãnh đạo cao cấp. Tôi gặp ông Phạm Văn Đồng và có nhiều
cuộc đàm đạo với Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch tại Hà Nội. Tại TP.HCM, thông
qua sự thu xếp của chủ tịch UBND thành phố Nguyễn Vĩnh Nghiệp, tôi có
một cuộc tiếp xúc không chính thức với Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh. Tôi
nhớ ông Nghiệp chiêu đãi vợ chồng tôi món bánh xèo Nam bộ. Vợ tôi rất
thích món này. Qua tiếp xúc với vợ tôi, ông ấy liền phong cho vợ tôi là
“Nàng dâu Việt”.
Trong một lần gặp gỡ với ông Võ Văn Kiệt, tôi trình
bày với ông về tầm quan trọng của việc tiến hành hội nhập kinh tế. Lúc
ấy, việc gia nhập Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) còn
khá dễ dàng. Tôi, với tư cách là đại sứ của phái đoàn Ủy ban châu Âu tại
GATT, có thể góp phần thúc đẩy tiến trình đàm phán của VN. Tôi gợi ý
rằng VN nên gia nhập GATT trước khi gia nhập ASEAN. Tôi cũng nói về việc
cần phải đi tắt đón đầu để phát triển công nghệ. Tôi lấy ví dụ sau
Chiến tranh thế giới thứ hai, các nhà máy tại Đức được tháo ra đưa sang
Pháp sử dụng để bồi thường chiến tranh. Nhờ việc này mà Đức có điều kiện
thành lập các nhà máy mới, và do vậy công nghệ của Đức giờ tiên tiến
hơn hẳn Pháp. Tôi không muốn VN phạm phải sai lầm nhập những công nghệ
cũ, lạc hậu về.
Ông Võ Văn Kiệt ủng hộ những điều tôi nói. Nhưng ông
cũng giãi bày: “Những ý tưởng của ông rất hay. Nhưng trong nước còn
nhiều việc phải làm. Chắc ít nhất mười năm nữa VN mới áp dụng những
chính sách ông gợi ý”.
Ngoài các cuộc gặp tại Hà Nội, tôi còn có dịp đón tiếp
ông Võ Văn Kiệt tại nhà riêng của tôi ở Geneva khi ông tới Davos (Thụy
Sĩ) dự Diễn đàn kinh tế thế giới. Trong lần ăn trưa đó, tôi cũng mời cả
ông Jean - Claude Trichet, lúc đó là bộ trưởng ngân khố Pháp (hiện nay
là chủ tịch Ngân hàng Trung ương châu Âu). Phiên dịch cho cuộc gặp gỡ
này là một người phụ nữ VN duyên dáng, lịch thiệp và nói tiếng Pháp
chuẩn không chê vào đâu được: bà Tôn Nữ Thị Ninh.
Về VN, tôi thường được mời đi thuyết trình ở các
trường đại học và một số cơ quan. Tôi nói nhiều về softomics, nền kinh
tế mềm, uyển chuyển với nền công nghiệp mà nguyên liệu là “chất xám”,
nhất là ngành công nghiệp phần mềm. Tôi nghĩ đi theo hướng này VN hoàn
toàn có thể thành công bởi tố chất người Việt là linh hoạt, khéo léo và
học hỏi nhanh. Những bài phát biểu của tôi thời cuối những năm 1980 ở VN
trở thành một hiện tượng. Một số người ghi âm lại, dịch ra tiếng Việt
rồi chuyền tay nhau các bài phát biểu này.
Một ngày, tôi nhận được một lá thư. Thư viết ngắn gọn
như một mệnh lệnh với nét chữ rắn rỏi: “Những điều ông nói về softomics
hay lắm. Tôi muốn gặp ông”. Ký tên: Võ Nguyên Giáp. Lá thư ấy mở đầu cho
tình bạn thân thiết của tôi và đại tướng Giáp. Kể từ đó, mỗi lần về VN
là tôi lại ghé thăm ông. Chúng tôi trao tặng nhau các cuốn sách, ngồi
đàm đạo chuyện đời. Chị Hà, vợ ông, cũng nói tiếng Pháp thành thạo và là
một người phụ nữ rất cởi mở. Sau này, sức khỏe Đại tướng Giáp không còn
dồi dào như trước nữa, nhưng mỗi khi tôi ngỏ lời ông dành thời gian để
tiếp những người bạn Pháp có nguyện vọng gặp gỡ ông, gia đình đều đồng ý
thu xếp ngay. Cựu thủ tướng Pháp Michel Rocard, bạn đồng môn với tôi
thời sinh viên, sau khi thăm Đại tướng Giáp đã nhận xét: “Tướng Giáp như
một pháo đài cổ không phai tàn theo năm tháng”.