Thị trường chứng khoán năm 2015 đi qua có đúng như kỳ vọng của ông không?
Quả thực thị trường chứng khoán năm 2015 đã có nhiều
biến động hơn mong đợi. Cũng như nhiều nhà đầu tư khác, chúng tôi mong
muốn VN-Index có thể đạt trên mức 600 điểm vào cuối năm với lượng giao
dịch hằng ngày tăng dần lên. Tuy nhiên, kết phiên cuối cùng của năm,
VN-Index chỉ dừng lại ở mức 579.03 điểm, tăng 6.4% so với đầu năm.
Ngoài ra, chúng tôi cũng khá thất vọng khi chương trình cổ phần hóa không đạt tiến độ như đã đề cập từ trước.
Đầu tư vào doanh nghiệp cổ phần hóa cũng là định
hướng của VinaCapital hiện nay, ông có thể nói rõ hơn về những khoản đầu
tư này trong năm 2015 cũng như kế hoạch đầu tư trong năm 2016?
Đối với VinaCapital, năm 2015 vừa qua chúng tôi đã tái
cấu trúc danh mục, thoái vốn một số tài sản niêm yết và tái đầu tư vào
các doanh nghiệp mạnh, trong đó có các doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa
như Vinatex và ACV.
Sang năm 2016, chúng tôi mong muốn đầu tư thêm, nắm bắt
nhiều cơ hội hơn nữa từ chương trình cổ phần hóa, nhưng điều này còn
phụ thuộc vào tiến độ thực tế của chương trình này. Đặc biệt, chúng tôi
hy vọng 2016 sẽ là một năm thành công hơn trong việc gọi vốn đầu tư và
có thêm những cơ hội đầu tư vào các công ty mạnh như Novaland và Đường
Quảng Ngãi.
Ngoài hai công ty này, khoản đầu tư mới trong năm 2015 của VinaCapital còn có IDP.
Riêng với Novaland và IDP, chúng tôi đang tích cực hỗ
trợ để giúp các doanh nghiệp tăng trưởng mạnh mẽ. Việc Novaland sớm trở
thành công ty đại chúng sẽ mở ra cơ hội cho nhiều nhà đầu tư nội địa
cùng tham gia và gặt hái thành công từ tiềm năng tương lai của doanh
nghiệp này. Chúng tôi hy vọng Novaland sẽ niêm yết vào cuối 2016 – đầu
2017.
Sau quyết định nâng lãi suất của Fed vào cuối năm
2015, nhiều chuyên gia nhận định sẽ có nhiều đợt tăng lãi suất nữa trong
năm 2016. Liệu dòng vốn ngoại vào thị trường Việt Nam sẽ chuyển biến ra
sao, thưa ông?
Động thái nâng lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ
(Fed) tại thời điểm gần cuối năm 2015 không gây bất ngờ và hầu hết các
nhà quản lý quỹ tại Việt Nam đã kịp điều chỉnh các khoản đầu tư để thích
ứng với tình hình mới, nên tôi không cho rằng các nhà đầu tư nước ngoài
sẽ tiếp tục rút một lượng lớn vốn đầu tư về chính quốc. Hơn nữa, mức
lãi suất của Fed tăng rất ít và ảnh hưởng không đáng kể lên chi phí gọi
vốn của các nhà đầu tư. Dòng vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam vốn dĩ
chịu ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân nên có thể nói rằng lãi suất Fed
nói riêng sẽ không phải là yếu tố ảnh hưởng lớn đến dòng vốn này.
Tôi cũng cho rằng Fed sẽ tiếp tục nâng lãi suất trong
năm 2016. Các thị trường toàn cầu sẽ bị ảnh hưởng, tuy nhiên với mức
tăng rất nhỏ như vậy, ảnh hưởng này sẽ chỉ ở mức thấp.
Như vậy, theo ông những yếu tố nào sẽ ảnh hưởng đến dòng vốn ngoại vào Việt Nam trong năm 2016?
Không chỉ riêng tác động của việc Fed điều chỉnh lãi
suất, dòng vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam sẽ còn chịu ảnh hưởng bởi
nhiều yếu tố khác. Có nghĩa là, nhà đầu tư nước ngoài sẽ cân nhắc nhiều
khía cạnh trước khi đầu tư vào Việt Nam, bao gồm định giá, thanh khoản,
cơ hội tương tự tại các quốc gia khác, sự mất giá và tính thanh khoản
của đồng nội tệ, chi phí vốn của nhà đầu tư so với lợi nhuận tiềm năng
từ cổ phần tại Việt Nam và rủi ro chính trị so với các nước khác.
Nhìn chung, nhà đầu tư nước ngoài có rất nhiều lựa chọn
khi đầu tư vào các thị trường mới nổi từ Đông Nam Á đến Mỹ Latin và
Đông Âu. Việt Nam phải cạnh tranh để thu hút dòng tiền và sự chú ý của
các nhà đầu tư khi họ có thể đang quan tâm các thị trường khác.
Tôi cho rằng rất khó dự đoán cụ thể về dòng vốn đầu tư
nước ngoài vào thị trường Việt Nam trong năm 2016 vì các yếu tố ảnh
hưởng đến quyết định của nhà đầu tư có thể diễn biến khác nhau. Chẳng
hạn, thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn có mức định giá tốt với P/E
khoảng 12x, thấp hơn đáng kể so với trung bình 15-20x tại các thị trường
Đông Nam Á, tuy nhiên không phải cổ phiếu nào cũng có thanh khoản cao.
Nói chung, tất cả các nhà đầu tư, kể cả các nhà đầu tư
quốc tế, sẽ đầu tư vào những doanh nghiệp có doanh thu và lợi nhuận tăng
trưởng mạnh và bền vững. Tôi tin rằng các công ty Việt Nam sẽ làm được
trong những năm sắp tới dựa trên mức tăng trưởng GDP đạt 6-7%/năm. Tuy
nhiên, các ngân hàng hoặc nhà đầu tư có thể đòi hỏi lãi suất cho vay
hoặc lợi suất đầu tư cao hơn do khả năng tiền đồng tiếp tục xuống giá.
Khi chi phí gọi vốn tăng lên, giá trị của thị trường chứng khoán Việt
Nam sẽ giảm đi so với thị trường các nước trong khu vực như Philippines,
và có thể sẽ ít hấp dẫn nhà đầu tư hơn trước.
Liên quan đến vấn đề tỷ giá, mới đây, Ngân hàng Nhà
nước vừa công bố cơ chế tỷ giá mới bằng cách xác định tỷ giá trung tâm
của VNĐ với USD, cho phép tỷ giá biến động linh hoạt hàng ngày theo diễn
biến cung cầu ngoại tệ trong nước, biến động trên thị trường thế giới.
Phản ứng của nhà đầu tư nước ngoài với cơ chế này như thế nào, thưa ông?
Về đồng nội tệ, rất có khả năng VNĐ sẽ xuống giá thêm
trong năm 2016; quan sát của VinaCapital cho thấy VNĐ đang được giao
dịch trên thị trường bằng hoặc cao hơn mức giá trần, từ đó gây áp lực
điều chỉnh tỷ giá hối đoái.
Tuy nhiên, chúng tôi tin rằng cơ chế ấn định tỷ giá
trung tâm mỗi ngày vừa được NHNN áp dụng sẽ giúp nhà đầu tư quốc tế an
tâm hơn khi quyết định tham gia hoặc tăng vốn đầu tư tại Việt Nam vì
dòng vốn sẽ không bị ảnh hưởng tiêu cực một cách đột ngột như đã xảy ra
trong năm 2015 theo cơ chế cũ.
Được biết VinaCapital từng nung nấu ý định nghiên cứu thành lập
Quỹ hoán đổi danh mục (ETF) và Quỹ bất động sản (REIT) tại thị trường
Việt Nam. Đến nay, Việt Nam đã xuất hiện loại hình quỹ này nhưng vẫn
chưa thấy VinaCapital, vì sao, thưa ông?
VinaCapital vẫn đang trong quá trình thẩm định các loại
hình quỹ hoán đổi danh mục (ETF) tiềm năng cho thị trường Việt Nam. Tuy
nhiên, đã có một số đơn vị nhanh chân hơn trong việc thành lập một vài
ETFs khá hấp dẫn. Cá nhân tôi rất hào hứng với mô hình ETF và REIT
nhưng một thử thách mà VinaCapital phải đối mặt (và tiếp tục cân nhắc)
là liệu có nhà đầu tư lớn nào quan tâm đến các loại sản phẩm đầu tư này
hay không?
Các loại hình này đã phát triển rất tốt tại những nền
kinh tế phát triển hơn và hội nhập sâu rộng hơn vào thế giới. Tôi tin là
trong dài hạn, ETF và REIT sẽ hoạt động tốt tại thị trường Việt Nam khi
nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng và trở thành một phần gắn kết vào cộng
đồng kinh tế quốc tế.
Theo lộ trình thì VinaLand và VNI phải đóng quỹ trong năm 2015, tiến trình đóng cửa và kế hoạch phát triển quỹ mới của VinaCapital như thế nào, thưa ông?
Quỹ VNL
và VNI đã đi đến cuối một chu trình đầu tư và do đó sẽ có các điều
chỉnh thích hợp trong giai đoạn tiếp theo. Tuy nhiên, các quỹ này không
nhất thiết phải “đóng”.
Trong đó, Quỹ VNI trên thực tế đã thành một sản phẩm
đầu tư mới. VNI được tái cấu trúc thành 2 quỹ: một quỹ mở đầu tư vào cổ
phiếu niêm yết và một quỹ đầu tư vào cổ phần tư nhân. Còn Quỹ VNL đang
tiếp tục thoái vốn các tài sản đã “chín muồi” và sẽ thực hiện chiến lược
mới trong năm 2016.
VinaCapital sẽ tìm kiếm cơ hội tái đầu tư một phần
nguồn thu từ việc bán các dự án và tài sản trong lĩnh vực bất động sản.
Còn trong lúc này, chúng tôi có quỹ VinaCapital Real Estate Special
Opportunities (VRSO) đang đầu tư vào một số dự án địa ốc tiềm năng./.
(Vietstock)