Có vẻ như những dự đoán bi quan của nhà tỷ phú đầu cơ nổi tiếng George Soros tại diễn đàn kinh tế thế giới ở Davos về tương lai của kinh tế Trung Quốc đang dần trở thành sự thực.
Nhà
đầu cơ nổi tiếng thế giới này đã dự đoán kinh tế Trung Quốc sẽ có một
cú hạ cánh cứng và không loại trừ khả năng rơi vào một cuộc khủng hoảng,
mà chìa khóa chính là tỷ giá của đồng nhân dân tệ. Nhưng khi mà cả thế
giới vẫn còn đang bán tín bán nghi trước nhận định này của Soros thì
chính phủ Trung Quốc lại tự biến nó thành một câu chuyện ngày càng đáng
tin, khi hàng loạt các tờ báo lớn như Tân hoa xã hay thời báo Hoàn cầu
chỉ trích Soros âm mưu chống lại kinh tế Trung Quốc thông qua việc công
kích đồng nhân dân tệ. Sự việc này đang cho thấy Trung Quốc đang thiếu
tự tin hơn bao giờ hết về vận mệnh đồng nội tệ của mình, khi mà nước này
đang nối gót Nga đối mặt với nguy cơ khủng hoảng.
Ở
thời điểm hiện tại, nền kinh tế Trung Quốc đang có rất nhiều điểm tương
đồng với kinh tế Nga cách đây hơn 1 năm, khi các lệnh trừng phạt kinh
tế được các nước phương Tây đưa ra sau khi Nga sáp nhập bán đảo Crimea
hồi đầu năm 2014. Các quan hệ kinh tế và thương mại giữa Nga và các nước
phương Tây gồm Mỹ và EU nhanh chóng bị cắt đứt, dẫn đến việc các nhà
đầu tư nước ngoài ồ ạt rút hết vốn khỏi thị trường Nga để chuyển về
nước. Việc một lượng lớn USD bị rút khỏi thị trường trong một thời gian
ngắn đẩy Nga rơi vào cảnh lạm phát phi mã, hệ thống kinh tế bị đình đốn
do quan hệ kinh tế với Mỹ và EU bị đứt đoạn, tiêu dùng giảm sút và tăng
trưởng thì rơi vào trì trệ.
Trong
giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng, chính phủ Nga còn tiếp tục đổ USD
từ quỹ dự trữ ngoại tệ ra thị trường để bình ổn tỷ giá đồng Rup; nhưng
khi mà đồng nội tệ này mất giá quá mạnh, có lúc sụt giảm lên đến hơn 50%
so với đồng USD, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quỹ dự trữ ngoại tệ của
Nga, thì Ngân hàng trung ương Nga không còn cách nào khác ngoài việc
cưỡng bách tăng lãi suất lên mức rất cao để kiểm soát lạm phát, từ 10,5%
lên 17%. Cuộc khủng hoảng kinh tế chấm dứt, nhưng cái giá mà Nga phải
trả là suy giảm tăng trưởng lên đến 3,8% trong năm 2015, tức một năm sau
khi tăng lãi suất.
Trung
Quốc ở thời điểm hiện tại cũng đang trải qua tình trạng tương tự. Theo
thống kê, hơn 1000 tỷ USD đã được các nhà đầu tư rút khỏi thị trường
Trung Quốc trong năm 2015. Chủ yếu là do nền kinh tế nước này đã tăng
trưởng chậm lại, tổng cầu thị trường nội địa giảm trong khi chi phí nhân
công thì đã tăng lên quá cao, gấp khoảng 3 lần so với các nước láng
giềng như Việt Nam hay Myanmar, khiến các nhà đầu tư rút vốn và tìm địa
điểm đầu tư mới. Cùng với đó là việc ngày càng có nhiều người Trung Quốc
chuyển tiền ra khỏi nước này vì nhiều lý do, từ lý do đầu tư kinh doanh
ra nước ngoài cho đến chuyển tiền không lý do và bất hợp pháp. Thống kê
chính thức thì có khoảng 61 tỷ USD được các công ty Trung Quốc bỏ ra để
thực hiện các dự án đầu tư ở nước ngoài trong năm 2015, còn con số
chuyển tiền bất hợp pháp của người dân thì không thể tính toán được.
Việc
một lượng quá lớn USD bốc hơi khỏi thị trường Trung Quốc chỉ trong vòng
một năm đang đẩy nền kinh tế số hai thế giới lâm vào tình cảnh tương tự
như Nga hồi cuối năm 2014. Áp lực tỷ giá đối với đồng nhân dân tệ thời
điểm hiện tại đang lớn hơn bao giờ hết, khi nó liên tục mất giá kể từ
khi được quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) chọn vào giỏ tiền tệ dự trữ hồi tháng
12.2015. Tổng cộng đến giờ đồng tiền này đã mất giá hơn 5% kể từ giữa
tháng 12, và đang được dự báo sẽ còn tiếp tục sụt giá trong thời gian
tới. Điều này đang tạo ra tác động ngược vào thị trường chứng khoán
(TTCK) nước này, khiến chỉ số CSI 300 liên tục sụt giảm kể từ những ngày
đầu năm 2016.
Tình
hình hiện tại căng thẳng đến mức, thống đốc ngân hàng trung ương Nhật
Bản là ông Haruhiko Kuroda đã buộc phải lên tiếng cảnh báo Trung Quốc,
cần phải tìm mọi biện pháp để kiểm soát dòng vốn. Một phần vì sự sa sút
không phanh của nền kinh tế và TTCK Trung Quốc do sự tháo chạy của dòng
vốn đang ảnh hưởng đến kinh tế và TTCK của Nhật Bản. Và gần nhất chính
phủ Trung Quốc đã tung ra một gói các giải pháp nhằm kiểm soát dòng vốn
trên thị trường, từ việc hạn chế người dân gửi ngoại tệ ra nước, cho đến
các doanh nghiệp hạn chế mua hàng và nhập khẩu bằng đồng USD, tăng
cường kiểm soát việc thanh toán qua thẻ UnionPay hay triệt phá các ngân
hàng ngầm trong hệ thống tài chính. Ở thời điểm hiện tại, mỗi người dân
Trung Quốc được phép mang khoảng 50.000 USD theo người ra nước ngoài, và
theo tính toán thì chỉ cần khoảng 5% dân số nước này mang chừng đó tiền
theo người ra nước ngoài là đủ để bào mòn toàn bộ quỹ dự trữ ngoại tệ
hiện tại của Trung Quốc.
Tính
đến hiện tại, những dự đoán bi quan của George Soros về tương lai kinh
tế Trung Quốc đang ngày càng có vẻ là chính xác. Tốc độ bơm tiền vào nền
kinh tế để duy trì sự ổn định của thị trường và ngăn chặn đà sụt giá
của đồng nhân dân tệ của chính phủ Trung Quốc đang ngày càng gia tăng,
với một mức lũy tiến đáng báo động. Cho đến giờ, ngân hàng trung ương
Trung Quốc đã có tổng cộng 3 lần bơm tiền ra thị trường chỉ trong tháng
1.2016. Lần thứ nhất vào ngày 20.1 với con số khoảng 60 tỷ USD, lần thứ
hai vào ngày 26.1 với mức 67 tỷ USD, và lần thứ ba vào ngày 28.1 với mức
52 tỷ USD. Lý do chính thức được Trung Quốc đưa ra là để giải quyết nhu
cầu tiền mặt gia tăng đột biến trong dịp Tết nguyên đán ở nước này,
nhưng lý do chủ yếu được dự đoán là để giải quyết áp lực liên quan đến
tỷ giá đồng nhân dân tệ và sự ổn định của nền kinh tế.
Việc
tăng tốc độ bơm tiền để ổn định thị trường đang cho thấy Trung Quốc
đang chịu những sức ép rất lớn để ổn định thị trường, thậm chí vượt ra
khỏi dự đoán của các nhà kinh tế. Theo dự đoán của các chuyên gia kinh
tế, quỹ dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc sẽ chỉ còn khoảng 3.000 tỷ USD
vào cuối năm nay từ mức 3.300 tỷ USD hồi đầu năm, nghĩa là nước này sẽ
chỉ phải chi khoảng 300 tỷ USD trong cả năm 2016 để ổn định kinh tế.
Nhưng khi mà Bắc Kinh đã bơm tới quá nửa con số dự kiến cả năm đó chỉ
trong vòng 1 tháng đầu năm, thì áp lực đó có lẽ là lớn hơn dự đoán rất
nhiều.
Tình
trạng này cũng tương tự như Nga trong giai đoạn đầu cuộc khủng hoảng,
khi nước này liên tục bơm tiền từ quỹ dự trữ vào thị trường để ổn định
tỷ giá đồng Rup, nhưng khi nó đe dọa bào mòn quỹ dự trữ đáng kể thì Nga
buộc phải tăng lãi suất lên rất cao để kiềm chế, buộc phải chấp nhận hậu
quả là suy giảm tăng trưởng kinh tế. Trung Quốc hiện nay cũng có thể
rơi vào tình trạng tương tự. Sẽ không có chuyện nước này dùng hết 3.300
tỷ USD còn lại (đã sụt mất hơn 700 tỷ USD từ tháng 8.2015) để ổn định tỷ
giá đồng nội tệ. Nếu đồng nhân dân tệ tiếp tục mất giá, sẽ đến lúc
chính phủ nước này phải học theo cách của Nga là tăng lãi suất. Và điều
này thì cũng đồng nghĩa với việc kinh tế Trung Quốc sẽ suy giảm nặng nề,
giống như Nga. Có lẽ, cú hạ cánh cứng của Trung Quốc mà George Soros
nói tới chính là kịch bản này.
Nhàn Đàm (theo Bloomberg/CafeF)