Kiến thức chứng khoán - Kinh nghiệm đầu tư chứng khoán

Thứ Ba, 3 tháng 9, 2013

Lịch sử ngành ngân hàng thế giới (P1): Thế kỷ 18 TCN – Hy Lạp và La Mã cổ đại

Ngân hàng là tổ chức tài chính nhận tiền gửi và cung cấp các khoản vay. Những ngân hàng đầu tiên được biết tới trong lịch sử nhân loại là các đền thờ cổ đại.

Những dịch vụ ngân hàng đầu tiên không dành cho đông đảo người dân bình thường. Các hoàng tộc, vương triều và một số ít nhà buôn giàu mới là đối tượng phục vụ của ngân hàng nguyên thủy.

Nơi cất trữ an toàn: Thế kỷ 18 trước Công nguyên

Vào khoảng ba nghìn năm trước Công nguyên (TCN), hình thức ngân hàng sơ khai được nhiều nhà sử học cho rằng đã hình thành trước khi con người phát minh ra tiền.

Ban đầu, tài sản gửi tại “ngân hàng” là các loại ngũ cốc, sau đó là gia cầm, nông sản, rồi đến kim loại quý như vàng. Đền thờ là nơi an toàn để cất trữ tài sản. Đó là các công trình được xây dựng kiên cố, thường xuyên có người tới hành lễ. Và xét về tâm linh thì ngay những tên trộm táo tợn nhất cũng có ý tránh chốn linh thiêng này.

Tại Ai Cập và Mesopotamia, vàng được gửi vào các đền thờ. Nhưng những tài sản quý giá này lại ngủ yên trong đó, trong khi, ở bên ngoài xã hội, các nhóm thương nhân và hoàng tộc lại rất cần sử dụng chúng.
Các nhà khảo cổ học tìm được những tàng tích cho thấy tới đầu thế kỷ 18 trước Công nguyên, tại Babylon, dưới thời trị vì của Hammurabi, thầy tu trông giữ đền thờ bắt đầu cho các nhà buôn mượn tài sản cất trữ trong đền. Khái niệm ngân hàng ra đời.

Hy Lạp và La Mã: Thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên

Người Hy Lạp cổ đại nắm giữ những bằng chứng xa xưa nhất về hoạt động ngân hàng.

Các ngân hàng của người Hy Lạp vận hành đa dạng và phức tạp hơn bất kỳ xã hội nào trước đó. Các đền thờ Hy Lạp cũng như các cá nhân và tổ chức hành chính tại các thành đô đã biết tới những giao dịch tài chính như cho vay, gửi tài sản, trao đổi tiền tệ, và định giá tiền đúc thông qua xác định khối lượng và mức độ thuần khiết của kim loại.

Thậm chí, người Hy Lạp đã sử dụng các giao dịch tín dụng ghi sổ. Tại các hải cảng, nơi tập trung nhiều hoạt động giao thương, người cho mượn tiền viết giấy tín dụng cho người cần sử dụng tiền. Người cầm giấy này có thể “đổi” lại thành tiền khi đến thành phố khác. Nhờ vậy mà người ta tránh được việc phải mang theo một lượng tiền lớn trong các chuyến buôn bán giữa các thành bang.

Pythius nổi tiếng là người lập ra và điều hành ngân hàng thương nhân (merchant bank) khắp vùng Tiểu Á đầu thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên. Nhân vật này được các nhà sử học coi là nhà ngân hàng tư nhân đầu tiên.

Một điểm đáng chú ý là tại các thành bang Hy Lạp, rất đông chủ ngân hàng là người lai hoặc người nước ngoài. Vào khoảng năm 371 trước Công nguyên, Pasion, một nô lệ, đã trở thành nhà ngân hàng Hy Lạp giàu có và nổi tiếng nhất, đã được tự do và được công nhận tư cách công dân của Athena.

Dường như người Hy Lạp, với trình độ phát triển khoa học cao, đã xem nhẹ lĩnh vực kinh doanh tiền tệ. Điều này giúp lý giải việc Hy Lạp đạt tới nền văn minh đỉnh cao từ rất sớm nhưng không có đóng góp hiểu biết đáng kể trong lĩnh vực kinh tế đương đại.

Hoạt động tín dụng ngân hàng phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên ở vùng Địa Trung Hải.

Tại Ai Cập, từ rất sớm, ngũ cốc đã được sử dụng như một loại tiền tệ bên cạnh kim loại quý (vàng và bạc). Các kho chứa ngũ cốc của triều đình thực hiện chức năng của ngân hàng. Khi đế chế Hy Lạp chinh phục Ai Cập, thời kỳ trị vì của hoàng gia Ptolemies (330-323 B.C.), những kho chứa nằm rải rác được tổ chức lại thành một hệ thống ngân hàng ngũ cốc, và được quản lý tập trung tại Alexandria – nơi ghi chép và lưu trữ tài khoản của các tất cả các ngân hàng ngũ cốc.

Mạng lưới ngân hàng này hoạt động như hệ thống tín dụng thương mại, trong đó, việc thanh toán được thực hiện bằng ghi sổ từ tài khoản này sang tài khoản khác mà không cần chuyển tiền trên thực tế. Đây chính là bản chất và hình thức đầu rõ ràng nhất của các nghiệp vụ bù trừ hay thanh toán điện tử của các ngân hàng hiện đại.

Cuối thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, đảo Delos ở vùng đất Aegean cằn cỗi, trở thành trung tâm ngân hàng quan trọng của vùng Địa Trung Hải. Nơi đây cũng nổi tiếng với hải cảng sầm uất và đền thờ thần Apollo tráng lệ.

Cũng giống như tại Ai Cập, giao dịch bằng tiền được thay thế bởi các hóa đơn tín dụng và việc thanh toán được thực hiện dựa trên những chỉ dẫn đơn giản với các tài khoản giữ riêng cho mỗi khách hàng.
Sau khi người La Mã chinh phạt các đối thủ cạnh tranh là Carthage và Corinth, Delos càng trở nên quan trọng. Hệ thống ngân hàng của Delos gần như được các ngân hàng ở Rome sao chép lại.

 Thành Rome cổ đại đã hoàn thiện các qui tắc và thủ tục hành chính của ngân hàng, cũng như các tổ chức và giao dịch tài chính. Lãi suất tiền vay và lãi tiền gửi được sử dụng rộng rãi với kỹ thuật tính toán phát triển và trong môi trường cạnh tranh.

Trong thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên, các khoản nợ được coi là đã chính thức thanh toán sau khi số tiền tương ứng đã chuyển tới ngân hàng. Nhà nước La Mã bổ nhiệm công chứng viên ghi nhận các giao dịch ngân hàng.

Tuy vậy, sự phát triển của các ngân hàng La Mã gặp phải cản trở lớn từ thói quen sử dụng tiền mặt trong giao dịch của người La Mã. Trong thời gian trị vì của Gallienus (260-268 sau Công nguyên), hệ thống ngân hàng La Mã từng bị gián đoạn sau khi các ngân hàng từ chối tiền bằng đồng mà vị Hoàng đế cho đúc ra.

Khi đế chế La Mã suy vong, các hoạt động thương mại giảm đáng kể nên các ngân hàng cũng không còn cần thiết. Thêm vào đó, giáo lý Cơ đốc cổ ngăn cấm thực hiện các giao dịch ngân hàng và coi việc tính lãi (cả với tiền gửi và tiền cho vay) là không có đạo đức.

Sau khi La Mã sụp đổ, hoạt động ngân hàng bị cấm tại Tây Âu và chỉ được phục hồi trở lại vào thời điểm các cuộc thập tự chinh xuất hiện.

Nguồn: historyworld.net (Bản dịch tiếng Việt của saga.vn)


>> Lịch sử ngành ngân hàng thế giới (P5): Ngân hàng quốc gia, Tiền giấy và Gia tộc Rothschild 
Share:

Trang

Nổi bật

Giới siêu giàu kiếm tiền từ đâu?