Kiến thức chứng khoán - Kinh nghiệm đầu tư chứng khoán

Hiển thị các bài đăng có nhãn ngành ngân hàng. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn ngành ngân hàng. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 13 tháng 6, 2015

Làn sóng khởi nghiệp đang đổ bộ đến giới ngân hàng phố Wall

Những dự án khởi nghiệp đang mài mòn đi lợi nhuận của những ông lớn trong ngành ngân hàng thế giới.

Những dự án khởi nghiệp đang mài mòn đi lợi nhuận của những ông lớn trong ngành ngân hàng thế giới. Và họ biết rõ điều này.

Một báo cáo của Goldman Sachs gần đây cho biết 4,7 nghìn tỷ USD từ ngành dịch vụ tài chính đang bị cuỗm mất bởi những đối thủ cạnh tranh nhỏ bé mới xuất hiện.

Những công ty môi giới trực tuyến đe dọa mảng ngân hàng đại lý của ngân hàng. Những ứng dụng quản lý tài sản đang nổi lên dành cho giới trẻ lấn át dịch vụ quản lý truyền thống. Những công ty khởi nghiệp tài chính cá nhân đang khách hàng cân bằng túi tiền của họ nhờ trực tuyến. Hay những startup tái cấp vốn đang tận dựng lợi thế từ cho vay sinh viên rẻ hơn so với vay từ ngân hàng.

Tất cả tạo nên làn sóng lớn đánh mạnh vào hoạt động kinh doanh truyền thống của các nhà băng.
Chính vì nguyên nhân này hiện hầu như tất cả các ngân hàng lớn trên thế giới đã đầu tư vào các dự án khởi nghiệp. Những quỹ đầu tư mạo hiểm, vườm ươm khởi nghiệp của các ngân hàng ngày càng đóng vai trò lớn trên mảnh đất hàng trăm công ty khởi nghiệp tiền IPO.

Sau khi ra mắt dự án đầu tiên trong vườn ươm của mình tại Tel Aviv vào năm 2013, đến cuối năm 2014 Citi Ventures đã mở rộng nỗ lực đến Tây Ban Nha, Đức, Singapore, Brazil, và Mỹ. Barclays Accelerator hoạt động ở 2 quốc gia, một phần nhờ vào các chuyên gia quản lý của TechStars . Thậm chí Capital One có một vườn ươm riêng là Capital One Labs.

Ông lớn Wells Fargo cũng ủng hộ một vài dự án khởi nghiệp qua vườn ươm khởi nghiệp của mình. Một trong số đó có tiềm năng để giúp các ngân hàng lớn gọt mỏng hơn về nhân sự. Kasisto là một nền tảng cho các tổ chức tài chính cung cấp các trợ lý khách hàng ảo. Còn Bank of America tài trợ cho các dự án liên quan công nghệ cao tại New York, London và Charlotte. Commerce, Innovated là quỹ dành cho khởi nghiệp khác được đầu tư bởi Silicon Valley Bank và MasterCard.

Đôi khi các ngân hàng cùng nhau đầu tư vào một dự án khởi nghiệp, giống như Motif Investing, một dự án môi giới trực tuyến. Cả hai JP Morgan và Goldman Sachs hậu thuẫn nền tảng này.

Ngoài ra JP Morgan cũng ủng hộ Square cùng với cánh tay đầu tư đến nhiều ngân hàng lớn khác.
Và thậm chí Morgan Stanley cũng hiện diện khá kín tiếng khi đầu tư vào nền tảng tin nhắn Perzo và Eris Exchange. Eris thực hiện các hợp đồng tương lai, hoán đổi về lãi suất.

Goldman Sachs thì ủng hộ Square, cùng với dự án khởi nghiệp khác, một trong số đó là công ty phân tích thị trường Kensho. Goldman thậm chí còn ủng hộ những khởi nghiệp về Bitcoin.

Một số xem đây là dấu hiệu chứng tỏ các gã khổng lồ phố Walll cuối cùng đã thừa nhận rằng họ không thể đứng ngoài làn sóng đến từ thung lũng Silicon để cạnh tranh với các đối thủ khác. Một số khác nghĩ rằng ít nhiều đây là sự thay đổi về văn hóa hơn là đàn áp đối thủ cạnh tranh. Còn người trong cuộc chơi họ nghĩ sao?

- "Các ngân hàng đang tìm hướng đầu tư giai đoạn ban đầu và những cơ hội", một nhà đầu tư đã làm việc với các ngân hàng về những giao dịch với dự án khởi nghiệp cho biết. "Ngay cả nếu họ không bỏ vốn vào các công ty thì họ sử dụng các quỹ vườn ươm của mình như một cách để hiểu làn sóng đổi mới đang diễn ra xung quanh họ, điều này hoàn toàn có giá trị. Khoản đầu đầu tư là tương đối nhỏ xíu khi so với cái nhìn sâu sắc mà họ nhận được. "

- "Một trong những lý do một số doanh nghiệp có thể háo hức làm điều này là các ngân hàng đang xây dựng cổ phần lớn trong các công ty tiền IPO", một nguồn tin trong giới ngân hàng k cho biết. Người này cho biết điều này liên quan đến những quy định sau khủng khoảng của chính phủ Mỹ như Dodd Frank Reform and Consumer Protection Act. Đạo luật này có những quy định gây khó khăn với việc các ngân hàng tham gia vào giai đoạn cuối của việc đầu tư.

- Một nhà đầu tư lại cho rằng đây là một phần trong chiến lược ngân hàng đầu tư sớm để gặt hái thành công từ những ngành của tương lai. Họ luôn luôn cố gắng để phục vụ các công ty công nghệ cao đầu càng nhiều càng tốt ngay từ thế hệ lãnh đạo.

- "Các ngân hàng cuối cùng đã được thừa nhận họ không tìm ra được tất cả mọi thứ", một nhà khác tại thung lũng Silicon cho biết.
Theo Trí Thức Trẻ/Business Insider
Share:

Thứ Sáu, 12 tháng 6, 2015

Thung lũng Silicon sẽ "giết chết" các ngân hàng phố Wall như Uber "giết" taxi truyền thống?

Những gì mà công nghệ sẽ làm đối với ngành ngân hàng cũng giống như những gì Uber đã gây ra cho giới taxi.

Không cà-vạt, tóc để dài, Tim Vasko không có vẻ gì là dân phố Wall.

Nhưng sự thật thì ngược lại. Trong tương lai gần, Vasco sẽ là dân phố Wall kiểu mới. Anh là nhà sáng lập của Finaeos, một công ty công nghệ mới ra đời được 5 tháng, chuyên cung cấp các dịch vụ hậu cần (back office) và huy động vốn cho các công ty nhỏ hơn và đặc biệt là những công ty khởi nghiệp. Nếu mọi việc suôn sẻ, Finaeos sẽ có thể cung cấp các dịch vụ thiết yếu của phố Wall với chi phí chỉ bằng 1/10 phí tư vấn của ngân hàng Morgan Stanley.

Thật vậy, giới ngân hàng và môi giới chứng khoán biết rằng mọi chuyện đang sắp kết thúc. Đó là vì có hàng trăm, mà có thể là hàng nghìn "Tim Vaskos" đang tìm cách “hái” những “quả” ở dưới thấp  đang được phố Wall tính theo giá “cắt cổ” cho các khách hàng cá nhân cũng như khách hàng doanh nghiệp suốt bao năm qua.

Công nghệ tài chính, hay còn gọi là fintech, đang định hình lại mọi bộ phận của chuyện kinh doanh, từ thanh toán đến cho vay, rồi tư vấn, đầu tư – thậm chí là tiền. Với mỗi đột phá mới của ngành này, những khoản chênh lệch lớn mà phố Wall trước đây vẫn đòi cho các dịch vụ độc quyền của mình đang dần biến mất.

Vì thế, suốt 2 ngày của tuần trước, các anh tài phố Wall đã đến thăm thung lũng Silicon. Họ đến từ American Express, Barclays và J.P. Morgan Chase. Họ đến để hợp tác với những startup “phá bĩnh” này chứ không phải với tư cách kẻ bại trận. Sự kiện có tên là Finovate đó không phải là lần đầu tiên và cũng chẳng phải là duy nhất. Các hội nghị công nghệ tài chính, nơi mà các nhân viên kinh doanh tìm kiếm những thương vụ lớn với các ngân hàng và những công ty môi giới lớn nhỏ, đã diễn ra trong nhiều thập niên qua.

Đừng quên rằng phố Wall cũng là một “doanh nghiệp” công nghệ. Họ đang dùng những chiếc ATM hay những máy tính chạy các thuật toán giao dịch. Điểm khác biệt ở đây là thay vì phục vụ nhu cầu ngân hàng – chẳng hạn như dịch vụ back office, hệ thống phần mềm tích hợp hay một nền tảng thanh toán di động mà có thể được bán cho các ngân hàng dưới dạng hợp đồng "chìa khóa trao tay" - thì nhiều công nghệ mới trong sự kiện này lại chỉ chăm chăm “lật đổ” các dịch vụ ngân hàng hiện có.

Ở lĩnh vực bán lẻ, Moven, sản phẩm sẽ được tung ra trong tháng tới, là một tài khoản ngân hàng có một bộ phận phân tích. Nó giống như là một máy điều nhiệt Nest cho các chi tiêu của bạn. Nó là một bước tiến từ những sáng tạo được thực hiện trong nhiều năm qua bởi Mint.com, một nền tảng theo dõi ngân sách và tài khoản hiện do Intuit Inc. sở hữu. Ngoài Moven ra còn có Simple, ứng dụng được tung ra vào năm 2012 mô phỏng một ngân hàng. Moven không phải là một ngân hàng nhưng nó là “cửa ngõ” dẫn đến ngân hàng CBW, một ngân hàng cộng đồng ở Weir, Kansas, là nơi thử nghiệm cho các startup mới trong ngành ngân hàng.

Trong khi những sản phẩm đó thay thế các dịch vụ hiện có của phố Wall, thì nhiều công nghệ khác cũng đang khai thác những thị trường mà các ngân hàng và công ty môi giới truyền thống không phục vụ. Chẳng hạn như Money Amigo là một ngân hàng trực tuyến nhắm đến những khách hàng ít được ngân hàng tin tưởng hoặc gần như không dám cho vay. Money Amigo tập trung vào thị trường dân gốc Tây Ban Nha và cung cấp những vụ chuyển tiền chi phí thấp.

Rõ ràng là phố Wall truyền thống đang bị bao vây gần như ở mọi góc độ bởi các startup công nghệ tài chính. Nếu như không phải là những công ty và sản phẩm vừa mới đề cập ở trên thì sẽ là một trong hàng tá cái tên sau đây: StockViews, Finicity, Hedgeable, Vouch and Draft.

Một điều ai cũng thấy là Phố Wall rất muốn “nắm giữ” các công nghệ này trước khi bị nắm giữ bởi chúng. Họ đang mua hoặc thuê với các nhân viên kinh doanh của bên thứ 3 này ở tốc độ mà Sở dịch vụ tài chính New York cảnh báo là “đang đặt chính mình vào nguy cơ an ninh mạng”.

Dĩ nhiên, điều đó không có nghĩa rằng các ngân hàng và công ty môi giới lớn sẽ sớm biến mất. Cuộc đua để trở thành một tổ chức nhận tiền gửi hay một công ty chứng khoán được đăng ký vẫn còn quyết liệt.

Tuy nhiên, một số cuộc đua đã ngã ngũ. Đầu tháng này itBit Trust Co. được công nhận là một ngân hàng ủy quyền ở New York. Và chắc chắn rằng itBit, một sàn giao dịch bitcoin có mặt tại Finovate tuần trước cũng đang tìm kiếm sự công nhận hợp pháp cho mình.

Rồi đây những itBit và Finaeos có thể không phải là người thắng cuộc. Tuy nhiên, đừng quên rằng Netscape, Webvan và AltaVista cũng từng đều mong trở thành những kẻ dẫn đầu vào thời điểm mà World Wide Web của thưở sơ khai khi đó đang làm thay đổi chuyện kinh doanh. Google, Amazon và những công ty khác đã thành công không có nghĩa là hồi kết vẫn còn xa. Nếu J.P. Morgan, American Express và Fidelity muốn sống sót trong thập niên tới thì họ cần phải dè chừng Tim Vaskos. Hiện có quá nhiều Tim Vaskos như thế!
(Trí thức trẻ/Market Watch  )

Share:

Chủ Nhật, 4 tháng 1, 2015

9 sự kiện tài chính – ngân hàng nổi bật năm 2014

2014 được đánh giá là một năm thành công rực rỡ về điều hành chính sách với lãi suất giảm mạnh, tỷ giá và giá vàng ổn định... song cũng để lại nhiều dấu ấn về thay đổi nhân sự cấp cao ở ngân hàng.

Chúng tôi xin điểm lại những sự kiện nổi bật nhất của ngành năm qua.

1. Lãi suất thấp nhất trong gần 1 thập kỷ

Mặt bằng lãi suất năm 2014 giảm 1,5-2 điểm phần trăm so với cuối năm 2013, trong đó mặt bằng lãi suất huy động giảm 1,5-2 điểm phần trăm/năm, lãi suất cho vay giảm khoảng 2 điểm phần trăm/năm, đưa mặt bằng lãi suất thấp hơn mức lãi suất của giai đoạn 2005-2006. Lãi suất của các khoản vay cũ tiếp tục được các TCTD tích cực điều chỉnh giảm, với các khoản vay có lãi suất trên 13% chỉ còn chiếm chưa đến 15% trên tổng dư nợ.

Đường cong lãi suất hình thành rõ nét, qua đó tạo điều kiện cho các TCTD huy động được nguồn vốn kỳ hạn dài và ổn định hơn, giảm chênh lệch kỳ hạn giữa tài sản có và tài sản nợ và giúp cho việc phân bổ vốn hiệu quả trong nền kinh tế.

Chênh lệch lãi suất cho vay – huy động (NIM) đã ổn định sau khi giảm mạnh trong giai đoạn 2011-2013. NIM giảm từ 3,5% (năm 2011) xuống 3,2% (năm 2012) và 2,8% (năm 2013) và được duy trì ổn định trong năm 2014.

2. Làn sóng sáp nhập, mua lại công ty tài chính

Xu hướng các Ngân hàng TMCP mua lại các Công ty tài chính được kích hoạt trong năm 2014 khi Nghị đinh 39/2014 của Chính phủ cho phép công ty tài chính được thực hiện các hoạt động ngân hàng về phát hành thẻ tín dụng, huy động vốn của các tổ chức, bảo lãnh, bao thanh toán. Theo đó, các ngân hàng có thể tận dụng kênh này để cung cấp các sản phẩm bán lẻ và tiện ích thanh toán.

Tiếp bước thương vụ HDBank mua 100% vốn Công ty Tài chính Việt Société Générale (SGVF), năm qua có nhiều thương vụ mua lại công ty tài chính thành công hoặc đã được NHNN chấp thuận như: VPBank mua đứt Công ty Tài chính Than - Khoáng sản Việt Nam và tăng tỉ lệ sở hữu ở Công ty tài chính dệt may lên hơn 75%; Techcombank được chấp thuận mua 100% công ty tài chính Hóa chất, SHB được chấp thuận mua lại Tài chính Vinaconex – Viettel; Maritime Bank mua lại công ty Tài chính Dệt may và chủ trương sáp nhập MDBank...

3. Ồ ạt thay lãnh đạo cấp cao ngân hàng

Có đến hơn chục ngân hàng đã thay lãnh đạo trong năm qua. Agribank sau gần 2 năm trống vắng khá nhiều vị trị lãnh đạo chủ chốt đã có dàn lãnh đạo mới hoàn toàn sau quá trình tái cơ cấu. Ông Trịnh Ngọc Khánh được bổ nhiệm làm chủ tịch HĐTV, ông Tiết Văn Thành nắm Quyền TGĐ Agribank kiêm thành viên HĐTV. Ông Phạm Đức Ấn - Phó tổng giám đốc BIDV được điều động về Agribank làm Phó chủ tịch HĐTV. Agribank cũng có thêm 2 phó TGĐ mới và nhiều lành đạo cấp vụ của NHNN về làm thành viên HĐTV.

Ở Vietcombank, sau khi ông Nguyễn Hòa Bình nghỉ hưu từ đầu tháng 12, ông Nghiêm Xuân Thành được bầu làm Chủ tịch HĐQT , Ông Phạm Quang Dũng, thành viên HĐQT được bổ nhiệm làm Tổng giám đốc. Tại Vietinbank, ông Nguyễn Văn Thắng lên làm chủ tịch HĐQT thay ông Phạm Huy Hùng nghỉ hưu. Ông Lê Đức Thọ, chánh văn phòng NHNN về làm Tổng giám đốc Vietinbank thay ông Nguyễn Văn Thắng.

Tại VietBank, nguyên Phó TGĐ của Eximbank Nguyễn Thanh Nhung về làm TGĐ của VietBank. Ngân hàng NamABank có chủ tịch HĐQT mới là ông Nguyễn Quốc thay cho em gái là bà Nguyễn Thị Xuân Loan. Tại DongABank, nguyên Thống đốc NHNN Cao Sỹ Kiêm làm Chủ tịch HĐQT thay cho ông Phạm Văn Bự về hưu theo chế độ. Ở KienLongBank, ông Võ Văn Châu lên nắm quyền Tổng giám đốc thay cho ông Phạm Khắc Khoan. Ở Ngân hàng Eximbank ông Phạm Hữu Phú làm Tổng giám đốc thay cho ông Nguyễn Quốc Hương.

Ngân hàng Navibank sau đổi tên thành Ngân hàng Quốc Dân (NCB) cũng có lãnh đạo mới là ông Vũ Hồng Nam làm chủ tịch còn bà Trần Hải Anh là Tổng giám đốc. Ngân hàng PvcomBank thì ông Nguyễn Hoàng Linh làm Tổng giám đốc thay ông Nguyễn Thiện Bảo.

Sau khi nguyên chủ tịch Oceanbank ông Hà Văn Thắm bị bắt tạm giam, bà Nguyễn Minh Thu – Tổng giám đốc đã lên thay còn bà Nguyễn Thị Mai Hương lên thay bà Thu. Nhưng sau 2 tháng, những ngày cuối cùng của năm 2014, OceanBank lại thay đổi 2 vị trí chủ chốt. Hiện nay bà Đào Thị Thúy làm Chủ tịch HĐQT trong khi ông Vũ Nhật Lâm lên nắm quyền điều hành.
Ngân hàng TMCP Xây dựng (VNCB) cũng là tâm điểm về thay đổi nhân sự năm qua. Sau khi chủ tịch HĐQT Phạm Công Danh và Tổng giám đốc Phan Thành Mai bị bắt giam, bà Vũ Bạch Yến – thành viên HĐQT lên nắm quyền chủ tịch thay ông Danh còn ông Đàm Minh Đức làm Tổng giám đốc.


4. Thị trường vàng, USD ổn định, dự trữ ngoại hối cao kỷ lục

Tỷ giá năm 2014 chỉ điều chỉnh 1 điểm phần trăm, thấp hơn so với kế hoạch của NHNN (tối đa là 2 điểm phần trăm). Thị trường ngoại hối về cơ bản ổn định, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của tổ chức, cá nhân đều được đáp ứng đầy đủ, kịp thời, niềm tin vào tiền đồng được củng cố. Nhờ đó NHNN tiếp tục mua được ngoại tệ để bổ sung dự trữ ngoại hối Nhà nước lên mức kỷ lục.

Tình trạng đô la hóa tiếp tục giảm, thể hiện qua tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ/tổng phương tiện thanh toán đạt khoảng 11,6%, giảm so với mức khoảng 12,4% của cuối năm 2012-2013.

Thị trường vàng diễn biến ổn định, giá vàng dao động quanh 35 triệu đồng/lượng và chênh lệch với thế giới khoảng 4 triệu đồng – tương đương cuối năm 2013. NHNN không phải tổ chức đấu thầu bán vàng miếng, góp phần hạn chế việc sử dụng ngoại tệ của Quỹ Bình ổn tỷ giá và giá vàng để nhập khẩu vàng trên thị trường quốc tế. Diễn biến ổn định của thị trường vàng đã góp phần duy trì sự ổn định của tỷ giá, thị trường ngoại hối, tăng dự trữ ngoại hối và ổn định kinh tế vĩ mô.

5. Số liệu nợ xấu giảm nhanh, dự phòng rủi ro tăng vọt

Theo cơ quan giám sát NHNN, vào thời điểm tháng 9/2012 tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống là 17%, nhưng sau hơn 2 năm xử lý chủ yếu bằng các giải pháp thu hồi nợ, cơ cấu lại nợ, sử dụng dự phòng rủi ro, bán nợ và tải sản bảo đảm …thì số nợ xấu này đã giải quyết được hơn một nửa. Tỷ lệ nợ xấu đến cuối năm 2014 ước còn 3,7-4,2%.

Còn theo báo cáo của các TCTD, tỷ lệ nợ xấu có xu hướng giảm, cụ thể đến cuối tháng 6 là 4,17%; tháng 7 là 4,11%; tháng 8 là 3,9% và cuối tháng 9 là 3,8%; ước cuối năm 2014 còn khoảng 2,5-2,7%.

Trong khi nợ xấu của các ngân hàng giảm nhanh thì dự phòng rủi ro lại tăng vọt do các ngân hàng áp dụng phân loại nợ theo quy định tại Thông tư 09 và trích lập dự phòng cho phần nợ xấu mà VAMC mua hoán đổi bằng trái phiếu đặc biệt.

Từ khi hoạt động tới nay, Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng (VAMCđã mua được 107.000 tỷ đồng nợ xấu từ nhiều ngân hàng, riêng năm 2014 đã mua được 67.000 tỷ đồng. Theo quy định các ngân hàng phải trích lập 20% dự phòng cho khoản nợ bán cho VAMC.

6. Quyết liệt xử lý vi phạm tài chính ngân hàng

2014 có thể nói là một năm ngành ngân hàng đã rất quyết liệt đối với các trường hợp vi phạm trong lĩnh vực tài chính.

Cụ thể, trong hệ thống ngân hàng, do cố ý làm trái, cả nguyên chủ tịch HĐQT Phạm Công Danh lẫn Tổng giám đốc Phan Thành Mai của Ngân hàng Xây dựng (VNCB) đã bị bắt giam, tiếp đó là nguyên chủ tịch ngân hàng TMCP Đại Dương (OceanBank) Hà Văn Thắm cùng nguyên Phó Tổng giám đốc Nguyễn Văn Hoàn cũng bị bắt giữ.

Trong lĩnh vực tài chính, lãnh đạo nhiều sàn vàng chui cũng bị bắt giam và truy tố như VGX, Khải Thái, 24 Gold…

Ngoài ra, nhiều đại án cũng được đưa ra xét xử như vụ án Huỳnh Thị Huyền Như, đại án “bầu” Kiên, vụ tham ô ở Công ty cho thuê tài chính II (ALC II); đại án chiếm đoạt tài sản ở VDB Đăk Nông…
Đồng thời, hệ thống ngân hàng cũng có quy định chặt chẽ hơn về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ tại Nghị định số 96/2014/NĐ-CP, với các mức phạt đều tăng, với mức phạt tối đa đối với tổ chức là 2 tỷ đồng và cá nhân là 1 tỷ đồng. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính cũng được tăng lên như Thanh tra viên ngân hàng (500.000 đồng), Chánh thanh tra giám sát ngân hàng (50 triệu đồng), Chánh thanh tra ngân hàng (1 tỷ đồng)...


7. Siết cho vay đầu tư cổ phiếu và sở hữu chéo

Bên cạnh các biện pháp yêu cầu tái cơ cấu quyết liệt, NHNN đã chính thức ban hành Thông tư 36 trong năm qua, với mục đích quan trọng là siết chặt hoạt động cho vay đầu tư cổ phiếu, xử lý nợ xấu và ngăn chặn sở hữu chéo.

Những điểm quan trọng được quy định phải kể đến: Tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với 1 khách hàng không được vượt quá 15% và tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với 1 khách hàng và người có liên quan không được vượt quá 25% vốn tự có của TCTD; Tổng mức dư nợ cấp tín dụng của NHTM, chi nhánh NH nước ngoài đối với tất cả khách hàng để đầu tư kinh doanh cổ phiếu không được vượt quá 5% vốn điều lệ, vốn được cấp;

NHTM chỉ được mua, nắm giữ cổ phiếu tối đa không quá 2 TCTD khác và chỉ được nắm giữ dưới 5% vốn có quyền biểu quyết của tổ chức tín dụng khác đó. Đồng thời NHTM không được cử người tham gia HĐQT tại TCTD mà NHTM đã mua...

8. Nới “room” ngoại tại ngân hàng

Theo Nghị định số 01/2014/NĐ-CP về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của tổ chức tín dụng Việt Nam, từ 20/2/2014, tỷ lệ sở hữu cổ phần của một nhà đầu tư chiến lược nước ngoài không được vượt quá 20% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng Việt Nam, tăng 5% so với quy định tại Nghị định 69/2007/NĐ-CP trước đó.

Tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài không vượt quá 30% vốn điều lệ của một ngân hàng thương mại Việt Nam.

Trường hợp đặc biệt, để thực hiện cơ cấu lại tổ chức tín dụng yếu kém, gặp khó khăn, bảo đảm an toàn hệ thống tổ chức tín dụng, Thủ tướng Chính phủ quyết định tỷ lệ sở hữu cổ phần của một tổ chức nước ngoài, một nhà đầu tư chiến lược nước ngoài, tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài tại một tổ chức tín dụng cổ phần yếu kém được cơ cấu lại vượt quá giới hạn quy định đối với từng trường hợp cụ thể.

9. Uy tín ngân hàng tăng lên

Một điểm nhấn quan trọng nữa của hệ thống ngân hàng năm qua là uy tín tăng lên, đặc biệt là của các nhà lãnh đạo nhờ những biện pháp điều hành chính sách hài hòa.

Uy tín ngân hàng được đặt lên hàng đầu khi người ta lựa chọn nơi gửi gắm tài sản, cung cấp nguồn vốn, nơi đầu tư hay bảo lãnh cho các hợp đồng. Số liệu thống kê cho thấy, tổng phương tiện thanh toán tăng xấp xỉ 16%, tăng trưởng tín dụng đã cán đích từ ngày 22/12 (tăng 12,62%) trong khi huy động vốn tăng hơn 16% bất chấp lãi suất huy động đã giảm mạnh.

NHNN đã điều hành linh hoạt, đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ để điều tiết tiền tệ phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, đảm bảo thanh khoản của tổ chức tín dụng và nền kinh tế. Thị trường vàng và ngoại hối có một năm bình lặng hiếm thấy.

Tín nhiệm của người đứng đầu ngành ngân hàng là Thống đốc Nguyễn Văn Bình đã tăng mạnh. Trong đó tại kỳ lấy tín nhiệm ở Quốc hội, ông Bình đứng thứ 10 trong số những đại biểu được nhiều phiếu tín nhiệm cao nhất và chỉ nhận 41 tín nhiệm thấp (năm 2013 là 209 phiếu). Còn tại kỳ lấy phiếu tín nhiệm nội bộ lãnh đạo NHNN thì Thống đốc Nguyễn Văn Bình đạt 100% phiếu tín nhiệm cao.
CafeF
Share:

Thứ Ba, 3 tháng 9, 2013

Lịch sử ngành ngân hàng thế giới (P2): Ngân hàng cho các Hoàng đế châu Âu

Quyền lực của xứ Florence (Italy) còn được củng có bởi những khoản nợ lớn mà các chủ ngân hàng ở đây đang nắm giữ. Con nợ, không ai xa lạ, chính là các vị Hoàng đế uy quyền bậc nhất châu Âu.

Tôn giáo và ngân hàng: Thế kỷ 12 và 13

Phần lớn các tôn giáo có nguồn gốc tại vùng Cận Đông không cản trở hành vi cho vay nặng lãi. Các xã hội này tin rằng những thực thể vô tri giác có đời sống giống như cây cỏ và động vật, và do đó, cũng có khả năng tự tái tạo.

Tại các vùng châu thổ lưỡng hà (Mesopotamia), vùng đất khởi thủy của đạo Do Thái Hitties, vùng Canaan và Ai Cập, việc tính lãi vay được coi là hợp pháp và triều đình thường đặt ra một mức lãi suất cố định. Chỉ có một sự khác biệt trong đạo lý của người Do Thái. Trong phần cuối của kinh Hebrew, người Do Thái không được tính lãi trong các khoản vay với người Do Thái. Lãi suất chỉ được áp dụng trong giao dịch với những kẻ vô thần hoặc không thuộc Do Thái giáo.

Người theo đạo Cơ đốc không được phép cho vay nặng lãi. Và đó là cơ hội cho các nhà ngân hàng thuộc tôn giáo khác. Khi cuộc Thập tự chinh bắt đầu đầu, các vương triều châu Âu thịnh vượng cần các hoạt động tài chính. Người Do Thái, xuất hiện ở hầu khắp các lĩnh vực và nghề nghiệp, đáp ứng nhu cầu này. Nhưng sự thành công của họ, sự hiện hiện đông đảo những người cùng tôn giáo Do Thái mang lại nhiều nguy hiểm cho chính họ.

Một nhóm khác cũng nổi lên trong thời kỳ này là các Hiệp sĩ thánh chiến (Knights Templar), những người sau vài năm đã trở thành các nhà ngân hàng hùng mạnh ở khắp châu Âu và Trung Đông. Cũng giống như người Do Thái, các Hiệp sĩ có những nghi lễ tôn giáo riêng và dễ dàng trở thành nạn nhân của lời đồn tai tiếng, ngờ vực và ruồng bố.

Việc kinh doanh ngân hàng mang lại nhiều lợi nhuận dần được chuyển sang tay “những người anh em” có nguồn gốc Cơ đốc giáo, được biết tới đầu tiên là những người Lombards. Lombard, tiếng Latinh viết là Langobardi, còn được gọi biết tới với tên Langobards hay Longobards, là nhóm người có nguồn gốc chủng tộc German, đến từ phía bắc châu Âu và định cư tại vùng lưu vực sông Danube. Tới năm 568, dưới sự chỉ huy của vua Alboin tiến vào nước Italia và lập nên Vương triều riêng, tồn tại tới năm 774.

Hậu duệ của người Lombards, các thương nhân tại Genoa, Milan, Venice và Florence là những người đầu tiên lập nên hệ thống ngân hàng hiện đại và đưa và thực hành các nghiệp vụ quan trọng.

Ngân hàng cho các Hoàng đế châu Âu: Thế kỷ 13 và 14

Trong suốt thế kỷ 13, các nhà ngân hàng ở bắc Italy, được biết tới tên gọi chung ”những người Lombards”, dần thay thế vai trò của người Do Thái trong hoạt động truyền thống: cung cấp tiền bạc cho những người giàu có và quyền lực, các hoàng gia châu Âu.

Kỹ năng kinh doanh của ngân hàng được phát triển với phát kiến về nghiệp vụ ghi sổ kép và cách thức bù trừ nghĩa vụ tín dụng của khách hàng trên ghi chép sổ sách giữa các ngân hàng trong hệ thống, vốn được các ngân hàng ở Genoa áp dụng từ thế kỷ 12.

Cách thức kế toán sáng tạo này giúp họp tránh được “tội lỗi” cho vay nặng lãi được qui định trong giáo lý Cơ đốc. Lợi nhuận của khoản vay được ghi trong các tài khoản dưới dạng quà tặng tự nguyện của người vay hoặc phần thưởng cho những rủi ro mà nhà ngân hàng đã trải qua. Hẳn nhiên, những món quà và phần thưởng của các hoàng tộc đứng đầu châu Âu không bao giờ có giá trị nhỏ.

Các ngân hàng tại Siena và Lucca, Milan và Genoa đều thu lợi từ những thương vụ mới này. Nhưng xứ Florence mới thực sự chiếm phần lớn nhất. Hệ thống ngân hàng Florence thống lĩnh hệ thống tài chính quốc tế nhờ đồng tiền vàng florin nổi tiếng. Được đúc lần đầu tiên vào năm 1252, đồng florin nhanh chóng nhận được sự tín nhiệm và công nhận rộng rãi, thực sự trở thành đồng tiền mạnh (hard currency) vào thời đó.

Tới đầu thế kỷ 14, hai dòng họ Bardi và Peruzzi là những người giàu có nhất tại Florence nhờ vào việc cung cấp các dịch vụ tài chính. Họ tổ chức việc thu và chuyển tiền dựa trên các hệ thống phong kiến quyền lực nhất, đặc biệt là nhờ Đức Giáo hoàng. Hoạt động buôn bán và trao đổi hàng hóa trở nên thuận tiện với những hóa đơn trao đổi (bill of exchange) mà nhà Bardi và Peruzzi cấp cho các thương nhân. Khi xuất trình những hóa đơn này, thương nhân có thể nhận được tiền ở bất kỳ ngân hàng trong hệ thống. (Đây là hình thức tương đồng với việc sử dụng cheque ngày nay).

Các ngân hàng xứ Florence đảm bảo dịch vụ này nhờ số lượng chi nhánh ở khắp nước Italia và tại các trung tâm buôn bán lớn của châu Âu. Tới đầu thế kỷ 14, hệ thống ngân hàng Bardi đã hiện diện tại Barcelona, Seville và Majorca; Paris, Avignon, Nice và Marseilles; London, Bruges, Constantinople, Rhodes, Cyprus và Jerusalem.

Quyền lực của xứ Florence còn được củng có bởi những khoản nợ lớn mà các chủ ngân hàng ở đây đang nắm giữ. Con nợ, không ai xa lạ, chính là các vị Hoàng đế uy quyền bậc nhất châu Âu. Cũng chính vì lẽ đó, không lâu sau, các ngân hàng này rơi vào cảnh tồi tệ.

Năm 1340, vua Edward III của nước Anh thực hiện “thương vụ” cực kỳ tốn kém: cuộc chiến với nước Pháp, sự khởi đầu của một thế kỷ chiến tranh. Vị Hoàng đế vay rất nhiều tiền từ xứ Florence. Nhà Peruzzi cho vua Edward III vay 600.000 florin vàng còn nhà Bardi cung cấp khoản vay 900.000 florin vàng. Tới năm 1345, nhà vua vỡ nợ và cả hai dòng họ ngân hàng Florence cũng lâm vào cảnh phá sản.
Tuy vậy, vai trò trung tâm ngân hàng châu Âu của xứ Florence vẫn tiếp tục sau thảm họa này. Nửa thế kỷ sau, những gia tài lớn nhất lại được các gia tộc ngân hàng ở đây tạo dựng. Lần này hai dòng họ lừng danh của thế kỷ 15: Pazzi và Medici.

Nguồn: historyworld.net (Bản dịch tiếng Việt của saga.vn) 

>> Lịch sử ngành ngân hàng thế giới (P1): Thế kỷ 18 TCN – Hy Lạp và La Mã cổ đại
>> Lịch sử ngành ngân hàng thế giới (P5): Ngân hàng quốc gia, Tiền giấy và Gia tộc Rothschild 
 
Share:

Lịch sử ngành ngân hàng thế giới (P1): Thế kỷ 18 TCN – Hy Lạp và La Mã cổ đại

Ngân hàng là tổ chức tài chính nhận tiền gửi và cung cấp các khoản vay. Những ngân hàng đầu tiên được biết tới trong lịch sử nhân loại là các đền thờ cổ đại.

Những dịch vụ ngân hàng đầu tiên không dành cho đông đảo người dân bình thường. Các hoàng tộc, vương triều và một số ít nhà buôn giàu mới là đối tượng phục vụ của ngân hàng nguyên thủy.

Nơi cất trữ an toàn: Thế kỷ 18 trước Công nguyên

Vào khoảng ba nghìn năm trước Công nguyên (TCN), hình thức ngân hàng sơ khai được nhiều nhà sử học cho rằng đã hình thành trước khi con người phát minh ra tiền.

Ban đầu, tài sản gửi tại “ngân hàng” là các loại ngũ cốc, sau đó là gia cầm, nông sản, rồi đến kim loại quý như vàng. Đền thờ là nơi an toàn để cất trữ tài sản. Đó là các công trình được xây dựng kiên cố, thường xuyên có người tới hành lễ. Và xét về tâm linh thì ngay những tên trộm táo tợn nhất cũng có ý tránh chốn linh thiêng này.

Tại Ai Cập và Mesopotamia, vàng được gửi vào các đền thờ. Nhưng những tài sản quý giá này lại ngủ yên trong đó, trong khi, ở bên ngoài xã hội, các nhóm thương nhân và hoàng tộc lại rất cần sử dụng chúng.
Các nhà khảo cổ học tìm được những tàng tích cho thấy tới đầu thế kỷ 18 trước Công nguyên, tại Babylon, dưới thời trị vì của Hammurabi, thầy tu trông giữ đền thờ bắt đầu cho các nhà buôn mượn tài sản cất trữ trong đền. Khái niệm ngân hàng ra đời.

Hy Lạp và La Mã: Thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên

Người Hy Lạp cổ đại nắm giữ những bằng chứng xa xưa nhất về hoạt động ngân hàng.

Các ngân hàng của người Hy Lạp vận hành đa dạng và phức tạp hơn bất kỳ xã hội nào trước đó. Các đền thờ Hy Lạp cũng như các cá nhân và tổ chức hành chính tại các thành đô đã biết tới những giao dịch tài chính như cho vay, gửi tài sản, trao đổi tiền tệ, và định giá tiền đúc thông qua xác định khối lượng và mức độ thuần khiết của kim loại.

Thậm chí, người Hy Lạp đã sử dụng các giao dịch tín dụng ghi sổ. Tại các hải cảng, nơi tập trung nhiều hoạt động giao thương, người cho mượn tiền viết giấy tín dụng cho người cần sử dụng tiền. Người cầm giấy này có thể “đổi” lại thành tiền khi đến thành phố khác. Nhờ vậy mà người ta tránh được việc phải mang theo một lượng tiền lớn trong các chuyến buôn bán giữa các thành bang.

Pythius nổi tiếng là người lập ra và điều hành ngân hàng thương nhân (merchant bank) khắp vùng Tiểu Á đầu thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên. Nhân vật này được các nhà sử học coi là nhà ngân hàng tư nhân đầu tiên.

Một điểm đáng chú ý là tại các thành bang Hy Lạp, rất đông chủ ngân hàng là người lai hoặc người nước ngoài. Vào khoảng năm 371 trước Công nguyên, Pasion, một nô lệ, đã trở thành nhà ngân hàng Hy Lạp giàu có và nổi tiếng nhất, đã được tự do và được công nhận tư cách công dân của Athena.

Dường như người Hy Lạp, với trình độ phát triển khoa học cao, đã xem nhẹ lĩnh vực kinh doanh tiền tệ. Điều này giúp lý giải việc Hy Lạp đạt tới nền văn minh đỉnh cao từ rất sớm nhưng không có đóng góp hiểu biết đáng kể trong lĩnh vực kinh tế đương đại.

Hoạt động tín dụng ngân hàng phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên ở vùng Địa Trung Hải.

Tại Ai Cập, từ rất sớm, ngũ cốc đã được sử dụng như một loại tiền tệ bên cạnh kim loại quý (vàng và bạc). Các kho chứa ngũ cốc của triều đình thực hiện chức năng của ngân hàng. Khi đế chế Hy Lạp chinh phục Ai Cập, thời kỳ trị vì của hoàng gia Ptolemies (330-323 B.C.), những kho chứa nằm rải rác được tổ chức lại thành một hệ thống ngân hàng ngũ cốc, và được quản lý tập trung tại Alexandria – nơi ghi chép và lưu trữ tài khoản của các tất cả các ngân hàng ngũ cốc.

Mạng lưới ngân hàng này hoạt động như hệ thống tín dụng thương mại, trong đó, việc thanh toán được thực hiện bằng ghi sổ từ tài khoản này sang tài khoản khác mà không cần chuyển tiền trên thực tế. Đây chính là bản chất và hình thức đầu rõ ràng nhất của các nghiệp vụ bù trừ hay thanh toán điện tử của các ngân hàng hiện đại.

Cuối thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, đảo Delos ở vùng đất Aegean cằn cỗi, trở thành trung tâm ngân hàng quan trọng của vùng Địa Trung Hải. Nơi đây cũng nổi tiếng với hải cảng sầm uất và đền thờ thần Apollo tráng lệ.

Cũng giống như tại Ai Cập, giao dịch bằng tiền được thay thế bởi các hóa đơn tín dụng và việc thanh toán được thực hiện dựa trên những chỉ dẫn đơn giản với các tài khoản giữ riêng cho mỗi khách hàng.
Sau khi người La Mã chinh phạt các đối thủ cạnh tranh là Carthage và Corinth, Delos càng trở nên quan trọng. Hệ thống ngân hàng của Delos gần như được các ngân hàng ở Rome sao chép lại.

 Thành Rome cổ đại đã hoàn thiện các qui tắc và thủ tục hành chính của ngân hàng, cũng như các tổ chức và giao dịch tài chính. Lãi suất tiền vay và lãi tiền gửi được sử dụng rộng rãi với kỹ thuật tính toán phát triển và trong môi trường cạnh tranh.

Trong thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên, các khoản nợ được coi là đã chính thức thanh toán sau khi số tiền tương ứng đã chuyển tới ngân hàng. Nhà nước La Mã bổ nhiệm công chứng viên ghi nhận các giao dịch ngân hàng.

Tuy vậy, sự phát triển của các ngân hàng La Mã gặp phải cản trở lớn từ thói quen sử dụng tiền mặt trong giao dịch của người La Mã. Trong thời gian trị vì của Gallienus (260-268 sau Công nguyên), hệ thống ngân hàng La Mã từng bị gián đoạn sau khi các ngân hàng từ chối tiền bằng đồng mà vị Hoàng đế cho đúc ra.

Khi đế chế La Mã suy vong, các hoạt động thương mại giảm đáng kể nên các ngân hàng cũng không còn cần thiết. Thêm vào đó, giáo lý Cơ đốc cổ ngăn cấm thực hiện các giao dịch ngân hàng và coi việc tính lãi (cả với tiền gửi và tiền cho vay) là không có đạo đức.

Sau khi La Mã sụp đổ, hoạt động ngân hàng bị cấm tại Tây Âu và chỉ được phục hồi trở lại vào thời điểm các cuộc thập tự chinh xuất hiện.

Nguồn: historyworld.net (Bản dịch tiếng Việt của saga.vn)


>> Lịch sử ngành ngân hàng thế giới (P5): Ngân hàng quốc gia, Tiền giấy và Gia tộc Rothschild 
Share:

Lịch sử ngành ngân hàng thế giới (P3): Dòng họ Medici và Fugger ở thế kỷ 15 – 16

Nhà Medici và Fugger tích lũy gia sản khổng lồ bằng việc chăm sóc tài chính cho Giáo hoàng và các hoàng tộc.


Gia tộc Medici xứ Florence

Một trong những cái tên được biết tới nhiều nhất trong thời kỳ đầu của lịch sử ngân hàng thế giới là dòng họ Medici ở xứ Florence.

Xuất thân từ những người nông dân, rồi tham gia các hoạt động buôn bán và ngân hàng, dòng họ Medici dần trở thành một trong các gia đình quyền lực nhất châu Âu trong suốt thời gian từ giữa thế kỷ 14 đến 1748.

Dưới sự dẫn dắt của Giovanni Medici từ đầu thế kỷ 15 và sau đó là Cosimo, dòng họ xứ Toscan (thuộc Italia) dần mở rộng các hoạt động ngân hàng ra ngoài ranh giới xứ Florence với các chi nhánh tại Milan, Geneva, Bruges, Ancona, Pisa, London và Avignon. Chi nhánh tại Rome quản lý tài khoản của Đức giáo hoàng.

Tại Florence, ngân hàng Medici nhận tiền gửi của những người Florence giàu có. Các khoản tiền gửi này có thể được rút ra theo định kỳ từ ba tháng đến một năm và hưởng mức lãi suất khoảng 10% mỗi năm.

Dòng họ Medici cũng dần quản lý xứ Florence, thể hiện sức mạnh kết hợp giữa tài chính và chính trị. Sự kết hợp này đã vô cùng hữu ích vào năm 1452 khi cả hai xứ Naples và Venice gây chiến với Florence. Đối mặt cùng lúc với hai mối hiểm hoạ, Cosimo đã cho đòi các khoản nợ tại hai thành phố thù địch khiến cho chiến tranh không thể nổ ra bởi hai thành phố này không còn đủ nguồn tài chính để thuê quân lính.
Nhà Medici sau cùng cũng nhận được tước hiệu Công tước xứ Florence nhưng vị trí đứng đầu ngành ngân hàng đã lọt vào tay ngân hàng Đức – dòng họ Fugger.

“Dòng họ Medici đạt tới đỉnh cao dưới thời Lorenzo (1449-1492), cháu trai của Cosimo. Lorenzo được coi là hình ảnh mẫu mực của một quý ông thời kỳ Phục Hưng. Ông là người trị vì xứ Florence, nhà thơ, học giả, một người say mê nghệ thuật, và một chủ ngân hàng. 

Danh tiếng này, tuy vậy, cũng có giá của nó. Dưới thời kỳ Lorenzo, dòng họ Medici đã cho vua nước Anh Edward IV vay tiền để tài trợ cho Cuộc chiến Hoa hồng (Wars of the Roses). Khi vị vua nước Anh không thể trả nợ, ngân hàng đã bị mất một số tiền lớn và buộc phải đóng cửa chi nhánh tại London.

Dòng họ Medici cũng tham gia tích cực các hoạt động chính trị tại Nhà thờ Thiên chúa Giáo, và rất có uy tín với các thế lực ngầm. Dòng họ Medici luôn là những chủ ngân hàng đầy thủ đoạn, sẵn sàng tận dụng mọi cơ hội để loại bỏ đối thủ cạnh tranh.

Dòng họ Medici bắt đầu suy yếu từ thế kỷ 16 khi xứ Florence bị xâm lược nhiều lần. Vào thế kỷ 16, ngân hàng Medici thoát khỏi cảnh phá sản nhờ sự giúp đỡ của Fuggers, một ngân hàng lớn ở miền nam nước Đức. Đến thế kỷ 18, ngân hàng Medici chỉ còn là cái bóng mờ nhạt của chính mình. Nhưng tên tuổi của dòng họ Medici và ngân hàng Medici xứ Florence còn mãi trong lịch sử ngân hàng thế giới.”

–Jane E. Hughes và Scott B. MacDonald, 2002. International Banking: Text and Cases.
Dòng họ Fugger

Cũng giống như nhà Medici, nhà Fugger tích lũy gia sản khổng lồ bằng việc chăm sóc tài chính cho Giáo hoàng và các hoàng tộc. Cuối thế kỷ 15, quyền lực của châu Âu được chuyển về Habsburgs, nơi gia đình Fugger sinh sống.

Tổ tiên nhà Fugger làm nghề dệt vải tại Augsburg và những tài sản đầu tiên của gia đình đều năm trong ngành dệt. Người vay tiền nhà Fugger đầu tiên là một hoàng tử Habsburgs vào năm 1487, với khoản đảm bảo là mỏ đồng và bạc ở vùng Tirol. Kể từ đó, gia tộc này mở rộng và phát triển các hoạt động khai mỏ và kim loại quý.

Năm 1491, Maximilian, lúc này còn là hoàng tử của vương triều Roman Thần thánh, nhận khoản vay đầu tiên từ nhà Fugger và đảm bảo bằng các quyền lợi kinh tế thu được từ hai lãnh đại tại Áo. Sau khi lên ngôi hoàng đế ở Habsburgs, Maximilian vẫn tiếp tục phải vay tiền của gia tộc Fugger.

Người vay nhiều tiền nhất từ nhà Fugger là cháu nội của Maximilian, vua nước Đức Charles. Thừa hưởng từ cha ông ngai vàng của nước Đức và vương triều Roman nhưng để giữ tước vị, Charles phải cạnh tranh với Hoàng đế nước Pháp, Francis Đệ nhất. Để có tiền trang trải cho cuộc tranh cử, Charles tìm đến nhà Fugger. Một lượng tiền khổng lồ đã được sử dụng để hối lộ bảy người bỏ phiếu: 852.000 florin. Gần hai phần ba số tiền này do nhà Fugger tài trợ (544.000 florin). Chiến dịch vận động tranh cử thắng lợi. Charles V đăng quang.

Thời gian đó, mức lãi suất không bao giờ ở dưới 12%/năm. Và với một khoản vay nóng, nhà ngân hàng ở thế kỷ 16 dễ dàng nâng mức lãi suất lên 45%. Cung cấp dịch vụ ngân hàng cho các hoàng đế mang lại lợi nhuận cao.

Các cuộc chiến liên tiếp và những khoản chi tiêu của vương triều đều đặn làm suy kiệt tài chính của Hoàng đề Charles. Cũng giống như những người đang trị vì các quốc gia châu Âu vào thời kỳ đó, chi phí của Charles V vượt xa những nguồn lợi có thể thu được. Phần chênh lệch được bù đắp bằng các khoản vay ngân hàng và thường được hoàn trả bằng cách nhượng lại những nguồn thu lợi của hoàng gia.

Nhờ đó, nhà Fugger được trao toàn quyền hưởng số lợi tức từ Tây Ban Nha cùng các mỏ bạc và thủy ngân vào năm 1525. Nhà ngân hàng này, từ đó, giữ vị thế đồng thời là người thu lợi tức và người quản lý tài sản của vương triều. Nhưng mức lãi suất cao của họ có thể nhanh chóng phá tan một vương quốc đã tham giá quá nhiều cuộc chiến không mang lại lợi nhuận.

“Dòng họ Fugger. Fugger là một trong các dòng họ nổi tiếng nhất trong ngành ngân hàng tại Đức vào giữa thời kỳ Trung cổ.
Cuối thế kỷ 15, dòng họ Fugger nổi lên như một gia đình buôn bán có thế lực tại thành phố Augsburg, và thường được nhắc tới như những người chủ ngân hàng chuyên phục vụ dòng họ Hapsburg. Năm 1487, Jakob Fugger (1459-1525) cho Sigismund- Hoàng tử xứ Tyrol- vay 20.000 duca (đồng tiền vàng cổ châu Âu). Để đảm bảo cho khoản vay, vị lãnh chúa dòng họ Hapsburg đã trao cho Jakob quyền kiểm soát các mỏ bạc tốt nhất vùng Schwarz và toàn bộ doanh thu thuế của tỉnh Tyrol.

Thời kỳ đó, nhu cầu sử dụng bạc rất lớn nhằm phục vụ công việc chế tác các đồ trang sức tinh xảo. Bạc cũng là phương tiện thanh toán, trao đổi xếp thứ hai sau vàng. Quyền kiểm soát các nguồn lực này vừa mang lại nguồn lợi khổng lồ vừa củng cố sức mạnh tài chính của dòng họ Fugger.

Với một khoản vay khác cho Hoàng tử Sigismund năm 1488, dòng họ Fugger đã có quyền kiểm soát hoạt động khai thác bạc trên toàn bộ lãnh thổ. Khi kế tục Sigismund nắm quyền cai quản Tyrol, năm 1490, Maximilian tiếp tục duy trì mối quan hệ tín dụng này. Ngay sau đó, năm 1491, Maximilian có thêm một khoản vay mới từ dòng họ Fugger nhằm tài trợ cho cuộc chiến thống nhất các lãnh địa thuộc dòng họ Hapsburg. Maximilian trở thành Hoàng đế của Đế chế Roman (Holy Roman Empire) vào năm 1493. Gia đình Fugger có một người bạn đầy quyền lực và một khách hàng gắn bó.

Đến năm 1508, công việc kinh doanh của dòng họ Fugger đã trải khắp châu Âu với các hoạt động đầu tư trong lĩnh vực dệt may, buôn bán hạt tiêu, bất động sản, và khai thác mỏ bạc và đồng. Ngân hàng Fugger cũng tham gia tài trợ cho các cuộc viễn chinh tại châu Mỹ.

Hệ thống kinh doanh quốc tế của gia đình Fugger cho phép họ cung cấp thêm một dịch vụ mới cho vương triều Hapsburg, khi đế chế này mở rộng và nằm rải rác ở nhiều vùng địa lý trên khắp lục địa châu Âu. Các lãnh địa chư hầu có nghĩa vụ nộp tiền cho vương triều Hapsburg. Họ thực hiện nghĩa vụ của mình bằng nhiều đồng tiền khác nhau và việc vận chuyển thường tốn rất nhiều thời gian và nguy hiểm.

Kết quả là việc sử dụng hệ thống của gia đình Fugger sẽ vô cùng tiện lợi cho hoàng gia. Với các lệnh chuyển đổi, tiền sẽ được chuyển tới Augsburg chỉ trong vòng hai tuần. Có thể hình dung một cách đơn giản, đại diện của gia đình Fugger tại Antwerp nhận tiền và phát hành một giấy ghi nhận tín dụng. Giấy chứng nhận này sẽ nhanh chóng được chuyển tới Đức và đổi thành tiền mặt tại ngân hàng Fugger ở Augsburg.

Gia tài của dòng họ Fugger, tuy vậy, cũng trở nên gắn bó vô cùng mật thiết với các hoạt động của khách hàng lớn nhất, vương triều Hapsburg. Dưới thời Charles V, người kế nghiệp Maximilian, chiến phí quá lớn trong các cuộc xung đột với người Ottoman, Pháp, và người Tin lành tại Đức đã đặt tình trạng tài chính của vương triều vào tình trạng căng thẳng đáng ngại. Mặc dù gia đình Fugger tin rằng họ đã gia hạn quá mức với vương triều Hapsburd, họ vẫn phải miễn cưỡng tiếp tục cung cấp các khoản tín dụng.

Sức mạnh tài chính của dòng họ Fugger bị tổn hại nghiêm trọng khi Philip II của Tây Ban Nha tuyên bố phá sản vào năm 1577. Gia sản của dòng họ Fugger sụt giảm nghiêm trọng ngay sau đó.”
–Jane E. Hughes và Scott B. MacDonald, 2002. International Banking: Text and Cases.
Tới cuối thế kỷ 16, dòng họ Fugger rút khỏi các hoạt động tài chính rủi ro, sau một số thảm họa gia đình, và duy trì hiện diện như một gia đình quí tộc sau khi bán đi phần lớn tài sản.

Từ đây xuất hiện những triều đại ngân hàng mới, trong đó nổi bật và quyền lực nhất là gia tộc Rothschild. Nhưng điểm đáng kể nhất của lịch sử ngân hàng thế kỷ 17 lại là mô hình kinh doanh với các dịch vụ thương mại hướng tới khách hàng thông thường nhiều hơn các vị hoàng đế.

Nguồn: historyworld.net (Bản dịch tiếng Việt của saga.vn)



>> Lịch sử ngành ngân hàng thế giới (P2): Ngân hàng cho các Hoàng đế châu Âu


>> Jacob Fugger - Người đàn ông giàu nhất trong lịch sử nhân loại?

 
Share:

Trang

Nổi bật

Giới siêu giàu kiếm tiền từ đâu?