Kiến thức chứng khoán - Kinh nghiệm đầu tư chứng khoán

Thứ Ba, 3 tháng 9, 2013

Lịch sử ngành ngân hàng thế giới (P4): Người Hà Lan thống lĩnh và sự ra đời của séc/cheque

Người Hà Lan thống lĩnh hệ thống tài chính quốc tế trong suốt thế kỷ 17 với nguồn tài chính từ các quốc gia đang tìm hướng phát triển kinh tế qua các hải đội của mình như Anh và Pháp.


Từ Antwerp đến Amsterdam

Antwerp trở thành trung tâm tài chính của châu Âu vào đầu thế kỷ 16. Vị trí trung tâm giao thương giữa vùng Baltic, Đại Tây Dương, và châu Á của Antwerp được khẳng định khi chuyến tàu đầu tiên của người Bồ Đào Nha dỡ các kiện hàng hạt tiêu và quế xuống bến cảng vào năm 1501.

Quan trọng hơn, tại Antwerp có một trong hai thị trường chứng khoán duy nhất vào thế kỷ 16. Tại đây, vốn và các khoản tín dụng luôn sẵn sàng dành cho các thương gia có uy tín đang thiếu vốn nhằm đổi lại mức thu thuế đảm bảo cùng các cam kết trả nợ.

Randall Germain ghi nhận về giai đoạn này như sau: “Sự phát triển của Antwerp, đặc biệt là thị trường chứng khoán tại đây, báo hiệu sự chuyển dịch cấu trúc tài chính công cộng, phản ánh sự bùng nổ cả khả năng cung cấp nguồn tài chính (đồng sovereign của Anh, vàng của Mỹ và doanh thu từ việc cấp phép độc quyền thương mại) và nhu cầu sử dụng các nguồn lực này.”

Antwerp đã thu hút các nhiều ngân hàng quốc tế. Các ngân hàng Đức, như Fugger hay Welser, đóng vai trò quan trọng tại đây, mặc dù các ngân hàng Italy cũng hiện diện.

Trong phần lớn thế kỷ 16, Antwerp phát triển thịnh vượng với hàng hoá từ châu Á do người Bồ Đào Nha đổ xuống cảng biển tại đây, sau đó chuyển tới Đức, vùng Baltic, và Anh quốc. Theo chiều ngược lại, các đồng tiền bạc và đồng của Đức và Hungary chảy về Antwerp. Nhiều chuyến hàng lớn khởi hành từ đây với nguồn tài trợ là các khoản vay từ ngân hàng Fugger hay Welser.

Thời hoàng kim của Antwerp trong lịch sử tài chính đi đến hồi kết vào thập kỷ 1580, khi cuộc chiến tôn giáo giữa những người Tin lành và những người Thiên chúa giáo nổ là tại Vùng đất trũng (ngày nay là khu vực Vương quốc Bỉ và Hà Lan). Thật không may, Antwerp đã tham gia vào cuộc chiến với cộng đồng người Tin lành thiểu số, những người phải gánh chịu cơn thịnh nộ của Philip II, người trị vì xứ Hapsburg (Tây Ban Nha) theo đạo Thiên chúa. Năm 1585, quân đội Tây Ban Nha tiến vào cướp phá Antwerp. Hậu quả nặng nề của sự kiện này là Antwerp đánh mất vai trò của mình trong hệ thống tài chính quốc tế.

Hoạt động ngân hàng trong thế kỷ 16 cũng không tránh khỏi rủi ro này. Trong khi nhiều ngân hàng lớn của Đức và Italy cho các vương triều châu Âu mượn tiền thì việc thu hồi các khoản nợ gặp rất nhiều khó khăn. Hỗ trợ cho bên chiến bại đồng nghĩa với việc người vay tiền sẽ bị xử tử và lãnh địa của họ bị tàn phá bởi các đạo quân vô cùng hung hãn. Cũng không kém phần nguy hiểm, ngay cả các hoàng gia lớn cũng có thể sử dụng quá mức nguồn lực tài chính của mình và thường dẫn tới kết cục vỡ nợ. Vua Philip II của Tây Ban Nha đã phải tuyên bố phá sản vào năm 1557. Hậu quả tại hại của sự kiện này là các ngân hàng lớn của Đức đều bị tổn thất nặng nề.

Khi Antwerp suy thoái là lúc Amsterdam nổi lên như trung tâm tài chính của thế giới. Trong thế kỷ 16, người Hà Lan thống lãnh việc vận tải thương mại tại khu vực Baltic và hoạt động rất tích cực tại các vùng lãnh thổ của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha.

Cuộc chiến với Tây Ban Nha vào cuối thế kỷ 16 mở ra cho người Hà Lan nhiều cơ hội thương mại quốc tế hơn. Đây là cơ hội để người Hà Lan nhanh chóng thành lập đế chế của riêng mình, và cuối cùng đã giành được quyền kiểm soát New Amsterdam (ngày nay là New York), các quần đảo châu Á mà ngày nay là Indonesia, hàng loạt hòn đảo tại vùng Caribbean và Suriname, và trong một thời gian ngắn là một phần Brazil và bờ biển phía đông châu Phi.

Người Hà Lan đã thực hiện các biến đổi sâu sắc trong tài chính vào đầu thế kỷ 17. Mặc dù an ninh quốc gia liên tục bị đe doạ bởi các hoàng tử Đức, Pháp, và Tây Ban Nha, nền độc lập của Hà Lan vào thế kỷ 17 được duy trì tương đối ổn định. Môi trường chính trị ổn định là điều kiện đầu tiên giúp hoạt động thương mại thăng hoa.

Và do vậy, nhu cầu một hạ tầng tài chính phát triển hơn và phức tạp hơn xuất hiện. Năm 1602, người Hà Lan cho thành lập các khu chợ có tổ chức dành cho việc trao đổi các công cụ tài chính. Ngân hàng Ngoại tệ Amsterdam (Amsterdam Exchange Bank) được thành lập năm 1609. Sở giao dịch chứng khoán Amsterdam (Amsterdam Stock Exchange) mở cửa năm 1611. Để làm nền móng cho các phát triển trên, người Hà Lan đã phát triển một hệ thống ngân hàng vững mạnh, biến Hà Lan trở thành nỗi ghen tị với phần còn lại của châu Âu, đặc biệt là Anh quốc.


Người Hà Lan thống lĩnh hệ thống tài chính quốc tế trong suốt thế kỷ 17 với nguồn tài chính từ các quốc gia đang tìm hướng phát triển kinh tế qua các hải đội của mình như Anh và Pháp. Sự thống lĩnh của người Hà Lan về tài chính, tuy vậy, đã mở đường cho người Anh tiến lên vị thế này trong thế kỷ 19.

Ngân hàng và Séc/cheque: Từ thế kỷ 16

Năm 1587, Banco della Piazza di Rialto mở cửa tại Venice với tư cách một sáng kiến của nhà nước. Mục tiêu của nó là cất giữ an toàn các khoản tiền của thương nhân và đảm bảo các giao dịch tài chính giữa Venice và đối tác ở bất kỳ đâu mà không thực hiện di chuyển vật lý của tiền đúc.

Quá trình khảo cứu tư liệu về lịch sử phát triển ngành ngân hàng thế giới ghi nhận các tài liệu đề cập tới dòng họ Goldsmid, ở một số tài liệu là Goldsmith. Mặc dù cách viết có khác nhau nhưng phỏng đoán rằng đây chỉ là một đối tượng duy nhất: những người làm nghề kim hoàn, đúc tiền vàng (loại tiền rất có giá trị vào thời Trung cổ). Với vị thế ngày một quan trọng của tiền vàng trong buôn bán và cất trữ, những người này giàu lên, có tích lũy. Việc sử dụng vốn của họ theo công nghệ kiếm lãi vay rất hợp tự nhiên và qui luật thị trường.

Còn sức mạnh quyền lực thông qua van tín dụng là do con người tạo nên với các kế hoạch thiết kế tinh vi, dày công chuẩn bị, điều phối cực tốt và thực thi hiệu quả từng lần. Đại gia tộc Rothschild đặc trưng cho những phẩm chất đó. Họ vươn lên trong sự tàn khốc của thị trường là điều ai cũng phải nghiêng mình kính nể.

Hình thức thanh toán không sử dụng tiền đúc đã từng được Hy Lạp cổ đại áp dụng nhưng khi đó, những cá nhân cho vay tiền đối diện với rủi ro vỡ nợ cao. Sáng kiến Venice, với chi phí và trách nhiệm thuộc về nhà nước, là nỗ lực cung cấp một phương tiện đảm bảo cho các hoạt động kinh doanh rủi ro. Các trung tâm thương mại ở vùng Địa Trung Hải trong thời kỳ đó, đáng kể có Barcelona và Genoa, thậm chí còn đi trước Venice với mô hình này. Các thành phố cảng phía bắc cũng nhanh chóng học tập theo, Amsterdam năm 1609, Hamburg năm 1619 và Nuremberg năm 1621.

Với phương thức giao dịch mới này, cheque, tiếng Việt gọi là séc, ra đời. Một hóa đơn trao đổi, phương thức ban đầu của việc chuyển tiền không sử dụng tiền đúc, là hợp đồng giữa các bên cá nhân và một hoặc nhiều hơn người cho vay tiền. Séc là hóa đơn thanh toán giữa các ngân hàng. Việc thanh toán được thực hiện cho bất kỳ ai nắm giữ và xuất trình séc với một trong số các ngân hàng tham gia cam kết trên séc.
Việc sử dụng séc đơn giản và được chấp nhận rộng rãi từ cuối thế kỷ 17. Cùng thời gian đó, các ngân hàng nhận ra họ có một nguồn lợi lớn hơn việc xử lý thanh toán séc và chuyển tiền.

Tổng số tiền các khách hàng gửi tại ngân hàng là một số lớn, và chỉ một phần trong số đó thường xuyên nhận được yêu cầu rút ra của khách hàng. Một phần số tiền còn lại có thể sử dụng để cho vay, với một mức lãi suất và mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Khi khách hàng nhận ra phần giá trị tiềm ẩn trong số tiền họ gửi tại ngân hàng, nhà ngân hàng chấp nhận trả cho khách hàng một mức lãi tương ứng với số tiền và thời gian gửi tiền trong ngân hàng. Lợi nhuận của ngân hàng khi này là phần chênh lệch giữa lãi suất phải trả cho khách hàng và lãi suất nhận được từ các con nợ.

Quá trình chuyển đổi từ các cá nhân cho vay tiền sang ngân hàng tư nhân diễn ra chậm rãi trong suốt thế kỷ 17 và 18. Tại nước Anh, những gia đình chuyên nghề kim hoàn bắt đầu nổi lên, nhờ sớm tham gia vào hoạt động giữ tiền trong thời kỳ phát triển đầu tiên của ngân hàng. Sau đó, những gia đình này bắt đầu cho vay tiền. Cuối cùng, sang thế kỷ 18, họ chuyển toàn bộ sang hoạt động ngân hàng thay cho công việc tạo tác truyền thống.

Với ngân hàng tư nhân là một phần cấu trúc của đời sống thương mại, trong giai đoạn tiếp theo, lịch sử phát triển ngân hàng ghi nhận sự ra đời của các ngân hàng quốc gia.

Nguồn: historyworld.net (Bản dịch tiếng Việt của saga.vn)

>> Lịch sử ngành ngân hàng thế giới (P5): Ngân hàng quốc gia, Tiền giấy và Gia tộc Rothschild

Share:

Trang

Nổi bật

Giới siêu giàu kiếm tiền từ đâu?