Trong bối cảnh Trung Quốc điều chỉnh
giảm giá mạnh đồng Nhân dân tệ và khả năng Mỹ sẽ tăng lãi suất đồng USD
trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước đã tăng 1% tỷ giá bình quân
liên ngân hàng giữa đồng Việt Nam và USD, đồng thời nới biên độ dao động
tỷ giá lên +/-3%. Bài viết của ông Nguyễn Đức Hùng Linh, Giám đốc Phân
tích, CTCK Sài Gòn (SSI) dưới đây đánh giá tác động của việc tăng tỷ giá
tới nền kinh tế cũng như tới các doanh nghiệp niêm yết.
Tăng tỷ giá, những tác động đến nền kinh tế…
Trong khi đồng Nhân dân tệ (NDT) đã ổn
định sau 3 lần phá giá, đồng VND vẫn tiếp tục chịu sức ép và kết quả là
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã điều chỉnh tỷ giá chính thức thêm 1% và nới
biên độ thêm 1%.
Như vậy, sau 2 lần điều chỉnh, đồng VND
được phép giảm tới 3% so với đồng USD và 5% nếu tính từ đầu năm. Mối lo
nhập siêu và giảm năng lực cạnh tranh với hàng Trung Quốc đã được gỡ bỏ.
Ông Nguyễn Đức Hùng Linh, Giám đốc Phân tích, CTCK Sài Gòn (SSI)
Xét ở khía cạnh phản ứng chính sách với
việc Trung Quốc phá giá đồng NDT thì điều chỉnh 3% không phải là điều
bất ngờ, điều bất ngờ là quyết định nâng tỷ giá chính thức, thay vì có
thể nới rộng biên độ lên 4%, thậm chí 5% và để thị trường tự điều chỉnh.
Ở góc độ là người quan sát, chúng tôi đưa ra một số quan điểm như sau:
Thứ nhất, việc điều chỉnh thêm 1% tỷ giá
sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến các khoản vay ngoại tệ của Chính phủ và
doanh nghiệp. Trong năm 2014, NHNN chỉ điều chỉnh tỷ giá 1 lần vào tháng
6. Sau đó, dù đồng VND lên giá, gây khó khăn cho xuất khẩu, nhưng tỷ
giá VND vẫn được giữ nguyên. Tuy nhiên, khi vừa bước sang năm 2015, tỷ
giá VND đã ngay lập tức được điều chỉnh tăng 1%.
Điều này khiến chúng tôi cho rằng, nỗ
lực neo giữ tỷ giá trong năm 2014 là nhằm hạn chế tác động tiêu cực đến
các khoản vay ngoại tệ, đặc biệt là vay nợ nước ngoài của Chính phủ. Nợ
nước ngoài quốc gia (bao gồm nợ của Chính phủ và nợ nước ngoài được
Chính phủ bảo lãnh) cuối năm 2014 là 39,9% GDP, tương đương 75 tỷ USD.
Với 1% mất giá, khoản nợ này sẽ tăng
thêm khoảng 17.000 tỷ đồng và làm tăng thâm hụt ngân sách. Vào cuối quý
II/2015, tỷ lệ thâm hụt ngân sách đã tăng lên 5,6% GDP, một trong những
nguyên nhân là sự gia tăng rất nhanh của gánh nặng nợ lãi. Với logic đó,
chúng tôi thấy rằng, việc cho phép tỷ giá giảm 5% đồng nghĩa tăng thâm
hụt và gánh nặng lãi phải được cân đối với một lợi ích hay vấn đề nào đó
thực sự cấp bách.
Thứ hai, ổn định tâm lý, tránh đầu cơ
USD và bảo vệ dự trữ ngoại hối, theo chúng tôi là một trong những vấn đề
cấp bách. Việc điều chỉnh mạnh đồng VND không chỉ làm thay đổi nhanh
cán cân cung cầu ngoại tệ, mà còn khiến tâm lý chờ đợi, găm giữ ngoại tệ
giảm hẳn. Trong quá khứ, NHNN đã khá thành công khi chủ động điều chỉnh
tỷ giá, phá tan tâm lý găm giữ và cách làm lần này cũng có thể mang lại
kết quả tương tự.
Theo thông tin chúng tôi có được, dự trữ
ngoại hối đã được sử dụng để bình ổn thị trường và tốc độ sử dụng dự
trữ ngoại hối trong 2 tuần qua là rất nhanh so với những tháng đầu năm.
Với tốc độ này, cùng với tâm lý găm giữ ngoại tệ, dự trữ ngoại hối có
thể sẽ còn hao hụt nhiều hơn nữa nếu không điều chỉnh tỷ giá.
Cán cân tổng thể của Việt Nam năm 2015
được dự báo tiếp tục dương, hỗ trợ cho việc ổn định tỷ giá. Vì vậy, bước
đi này của NHNN sẽ là một bước đi linh hoạt, có nghĩa là có thể tăng
trong ngắn hạn và giảm trong dài hạn khi nguồn cung ngoại tệ ổn định.
Một thông tin tích cực là trạng thái ngoại tệ của hệ thống ngân hàng
hiện ở trạng thái dương (cuối ngày 19/8) và tỷ giá trong ngày hôm qua
(20/8) đã ổn định trở lại.
Thứ ba, hạn chế nhập siêu và hỗ trợ xuất
khẩu là lợi ích rõ nhất khi điều chỉnh mạnh tỷ giá. Đồ thị 1 và 2 cho
thấy, đồng VND dù theo sau nhưng đã khá sát với đồng NDT của Trung Quốc.
Đồng NDT sau khi mất giá hơn 3% đã ổn
định, khoảng cách 2% giữa đồng VND và NDT đã được lấp đầy bằng việc điều
chỉnh tỷ giá và biên độ.
Đồ thị 1: So sánh biến động tỷ giá NDT và VND với USD trong 3 tuần (Nguồn: Bloomberg)
Tuy nhiên, việc điều chỉnh VND không
thực sự cấp thiết để tái cân bằng cán cân thương mại Việt - Trung, mặc
dù hàng hóa giá rẻ của Trung Quốc sẽ gây khó khăn cho một số doanh
nghiệp trong nước. Việt Nam nhập siêu rất lớn từ Trung Quốc và đang nhập
nhiều mặt hàng trong nước trong sản xuất được như máy móc thiết bị và
nguyên phụ liệu công nghiệp.
Hàng hóa rẻ hơn từ Trung Quốc có nghĩa
giá thành đầu vào giảm, làm tăng tính cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu
và giảm lạm phát, một mục tiêu quan trọng của ổn định vĩ mô.
Việc điều chỉnh tỷ giá VND sẽ có ý nghĩa
hơn với xuất khẩu sang các thị trường khác, ví dụ Mỹ và EU, nơi hàng
hóa Việt Nam phải cạnh tranh trực tiếp với hàng hóa Trung Quốc. Mỹ và EU
là 2 thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm tới gần 40% tỷ
trọng xuất khẩu, đồng thời là 2 thị trường xuất siêu của Việt Nam.
Đồ thị 2: Tỷ trọng xuất nhập khẩu và thương mại của Việt Nam với các nước (Nguồn: Bloomberg)
Thứ tư, cơ chế tỷ giá linh hoạt theo
cung cầu thị trường là một điểm cộng cho Việt Nam khi hội nhập sâu hơn
vào thương mại toàn cầu.
Từ đầu năm đến nay, Việt Nam đã ký kết
và tham gia đàm phán một loạt hiệp định thương mại với các đối tác lớn,
đặc biệt là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Ngoài vấn đề
thương mại, các hiệp định với các đối tác phát triển luôn có lồng ghép
vấn đề đầu tư, cải cách kinh tế, phát triển kinh tế tư nhân…
Một cơ chế tỷ giá linh hoạt theo thị
trường, giảm bớt kiểm soát dòng vốn sẽ luôn được trông đợi từ các đối
tác khi muốn đầu tư vào Việt Nam. Cũng như Trung Quốc đang trong quá
trình tự do hóa đồng NDT, Việt Nam hiện đứng trước nhu cầu phải cho đồng
VND linh hoạt hơn nhằm đáp ứng tiêu chuẩn của các nước lớn.
Trước đây, đồng VND luôn được kiểm soát
chặt chẽ, biên độ giao dịch của VND thường xuyên ở mức bằng và dưới 1%
(trừ thời gian xảy ra khủng hoảng kinh tế năm 2008). Nhân việc Trung
Quốc phá giá NDT, Việt Nam thực hiện linh hoạt hóa đồng VND bằng cách
nới rộng biên độ giao dịch lên 3% là một bước đi cần thiết ở thời điểm
này.
Đồ thị 3: Biên độ giao dịch VND so với USD giai đoạn 1999 - 2015 (Nguồn: SBV)
Với những quan điểm trên, chúng tôi cho
rằng, Chính phủ và NHNN có lý do để điều chỉnh tỷ giá và tăng biên độ.
Áp lực tỷ giá trong thời gian tới sẽ đến một phần từ dòng vốn đầu tư
gián tiếp khi Quỹ Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) nâng lãi suất đồng USD. Tuy
nhiên, chúng ta đã ban hành Nghị định 60/2015/NĐ-CP trong đó có quy định
về nới room và sắp tới là tham gia Hiệp định TPP sẽ cân bằng trở lại.
Thời điểm sẽ đóng vai trò quan trọng bởi các yếu tố này đều liên quan
đến chính sách và quyết định của các cơ quan Chính phủ.
… và các doanh nghiệp niêm yết
Với các doanh nghiệp niêm yết, tác động
của việc điều chỉnh tỷ giá sẽ ở 2 hướng: thuận lợi và bất lợi. Các doanh
nghiệp xuất khẩu, có nguồn thu ngoại tệ như may mặc, thủy sản sẽ là
những doanh nghiệp được hưởng lợi.
Ở chiều ngược lại, các doanh nghiệp đang
vay nợ bằng ngoại tệ như nhóm vận tải biển, năng lượng sẽ chịu tác động
tiêu cực. Các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu cũng gặp bất lợi, tuy
nhiên tác động cuối cùng đến lợi nhuận còn phụ thuộc vào khả năng chuyển
giá đến người tiêu dùng.
5 ngành, lĩnh vực chiếm tỷ trọng lớn
trên thị trường là ngân hàng, sản xuất thực phẩm, bất động sản, dầu khí
và dịch vụ tài chính, chiếm 67% tổng vốn hóa TTCK.
Tác động của việc điều chỉnh tỷ giá đến ngành ngân hàng, bất động sản và dịch vụ tài chính là không đáng kể.
Với ngành sản xuất thực phẩm, chủ yếu là
VNM, tỷ giá tăng sẽ làm tăng giá nhập khẩu sữa. Tuy nhiên, VNM với vị
thế dẫn đầu thị trường có thể sẽ tăng giá bán. Với ngành dầu khí, nguồn
thu chính là USD nên việc USD lên giá mang lại lợi ích cho ngành này.
Như vậy, việc tăng tỷ giá không gây ra
ảnh hưởng lớn đến bức tranh lợi nhuận của toàn thị trường, mà chỉ gây
ảnh hưởng đến một số doanh nghiệp đơn lẻ.
Một điều cần lưu ý là số doanh nghiệp
niêm yết hiện tại chưa thực sự đại diện cho nền kinh tế. Việt Nam đang
dựa vào xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu của nhóm doanh nghiệp đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI), làm động lực tăng trưởng. Việc điều chỉnh tỷ
giá sẽ hỗ trợ tốt hơn cho xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế nói chung.
Từ nay đến cuối năm, nhiều yếu tố thuận
lợi và bất lợi sẽ đan xen. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập sâu
rộng và công cuộc cải cách đang đi đúng hướng, hứa hẹn nền kinh tế sẽ
phục hồi ổn định và bền vững.
Giá cả hàng hóa giảm, tạo điều kiện cho
kiềm chế lạm phát và gia tăng sức cầu. Những biến động từ bên ngoài như
việc Trung Quốc phá giá đồng NDT, FED nâng lãi suất cùng với những rủi
ro trong nước như thâm hụt ngân sách là các vấn đề cần thường xuyên phải
cảnh giác. Chúng tôi cho rằng, trong rủi ro sẽ có cơ hội và ngược lại.
(Nguyễn Đức Hùng Linh - Tin Nhanh Chứng Khoán)