Theo Bộ Tài chính, so với cam kết WTO, với
Hiệp định TPP, Việt Nam cam kết mở cửa bổ sung một số loại hình dịch vụ
mới trong lĩnh vực chứng khoán, qua đó mở ra cơ hội phát triển mới cho
TTCK.
Một
câu hỏi mà giới đầu tư đang quan tâm là khi dự kiến có hiệu lực từ năm
2018, TPP có là “bản sao” của WTO trong tạo ra những hiệu ứng tích cực
cho TTCK như khi Việt Nam chính thức là thành viên của tổ chức thương
mại lớn nhất thế giới diễn ra cách đây 8 năm? Giới chuyên gia cho rằng,
sự bùng nổ của TTCK như khi Việt Nam tham gia WTO sẽ khó lặp lại với
TPP, bởi WTO là sân chơi lớn, bao trùm cả TPP.
Mặt
khác, trước khi đặt chân vào WTO, Việt Nam chưa mấy hội nhập sâu rộng về
kinh tế, thương mại với thế giới, nên luồng gió mới WTO đã tạo ra sự
hưng phấn lớn đối với cả giới đầu tư trong và ngoài nước. 8 năm sau, khi
nếm trải những cung bậc thăng trầm của thị trường, giờ đây khi TPP hiện
hữu, giới đầu tư đã tỏ ra chín chắn hơn khi phát đi những thông điệp về
phản ứng tâm lý trên thị trường.
Với những gì ghi nhận trên TTCK kể từ
thời điểm TPP kết thúc đàm phán đến nay có thể thấy, TPP không thể là
“bản sao” của WTO, chí ít là trên khía cạnh tâm lý thị trường. Còn ở
phương diện tác động đến các yếu tố có thể lượng hóa được, việc đưa ra
dự báo lúc này là quá sớm. Nhưng với tính chất và mức độ cam kết mở cửa
sâu hơn trên không ít lĩnh vực, thị trường trong TPP, theo nhìn nhận của
nhà quản lý cũng như các chuyên gia, sẽ mang lại cơ hội phát triển mới
cho TTCK.
Trên khía cạnh mở ra cơ hội phát triển
mới cho DN, tại cuộc họp báo thông tin về Hiệp định TPP, do Bộ Tài chính
vừa tổ chức, ông Vũ Như Thăng, Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Tài
chính nhìn nhận, khi TPP có hiệu lực, sẽ mở ra nhiều cơ hội cho DN cải
thiện hiệu quả kinh doanh.
"Với những gì ghi nhận trên TTCK kể từ thời điểm TPP kết thúc đàm phán đến nay có thể thấy, TPP không thể là “bản sao” của WTO, chí ít là trên khía cạnh tâm lý thị trường".
Các nước trong TPP cam kết xóa bỏ thuế
nhập khẩu dành cho hàng hóa của Việt Nam ngay khi Hiệp định có hiệu lực
khoảng 78 - 95% số dòng thuế và xóa bỏ hoàn toàn từ 97 - 100% dòng thuế.
Nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào thị trường TPP được
hưởng thuế suất 0% ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực hoặc sau 3 - 5 năm
như: nông sản, thủy sản, dệt may, giày dép, đồ gỗ, điện tử…
Ngược lại, Việt Nam cam kết xóa bỏ gần
100% số dòng thuế trong TPP theo lộ trình: 65,8% số dòng thuế có thuế
suất 0% ngay khi TPP có hiệu lực; 86,5% số dòng thuế có thuế suất 0% vào
năm thứ 4 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực; 97,8% số dòng thuế có thuế
suất 0% vào năm thứ 11 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực...
Với nội dung cam kết sâu rộng như trên,
cơ hội đan xen với thách thức. Do đó, nếu ngay từ bây giờ Nhà nước cùng
DN sau khi đã nhận diện được những ngành mang lại cơ hội xuất khẩu hấp
dẫn vào các thị trường trong khối TPP để có chiến lược chuẩn bị, đầu tư
bài bản, thì sẽ giúp nền kinh tế, DN tận dụng tối đa các cơ hội do TPP
mang lại, giảm thiểu các mặt tác động không mong muốn.
Trên khía cạnh mở cửa TTCK, ông Thăng
cho biết, các cam kết thuộc Chương dịch vụ tài chính của Hiệp định TPP
tạo ra 3 thành tố cơ bản hướng tới đẩy mạnh sự phát triển của thị trường
dịch vụ tài chính ở Việt Nam, bao gồm mở rộng cam kết về mở cửa thị
trường đi kèm với cơ chế minh bạch hóa, tạo cơ hội tiếp cận thị trường
tốt hơn cho các NĐT nước ngoài; áp dụng cơ chế bảo hộ đầu tư nhằm đảm
bảo đầy đủ lợi ích của các NĐT; đảm bảo không gian chính sách để thực
hiện các biện pháp quản lý thận trọng, nhằm xây dựng nền tài chính vĩ mô
ổn định.
Ở thành tố thứ nhất, đại diện Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước cho biết, so với cam kết WTO, Việt Nam cam kết mở
cửa bổ sung đối với một số loại hình dịch vụ mới nhằm tạo cơ hội tiếp
cận thị trường cho các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài, như dành đối xử
quốc gia cho các nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán nước ngoài đối với một
số dịch vụ như xử lý dữ liệu tài chính qua biên giới; dịch vụ tư vấn và
các dịch vụ phụ trợ qua biên giới liên quan tới giao dịch tài khoản tự
doanh hoặc tài khoản của khách hàng; mở cửa dịch vụ quản lý danh mục đầu
tư qua biên giới.
Về cơ chế bảo hộ NĐT nước ngoài, việc mở
cửa thị trường dịch vụ tài chính kết hợp với nghĩa vụ bảo hộ đầu tư
thông qua bổ sung các nghĩa vụ cam kết liên quan đến bảo hộ đầu tư như
cơ chế giải quyết tranh chấp, nguyên tắc đối xử tối thiểu. Trong đó, cơ
chế giải quyết tranh chấp được quy định chi tiết theo các cấp độ: nhà
nước và nhà nước, NĐT và nhà nước.
Đặc biệt, cơ chế giải quyết tranh chấp
giữa NĐT và nhà nước cho phép đảm bảo đầy đủ quyền lợi của các NĐT khi
tham gia thị trường. Quy trình giải quyết tranh chấp được quy định rõ
ràng, cụ thể, đảm bảo tính minh bạch, có hiệu quả.
Theo đánh giá của Bộ Tài chính, các cam
kết mới trong lĩnh vực chứng khoán sẽ thúc đẩy các cơ hội đầu tư, góp
phần đẩy mạnh sự phát triển của TTCK trong thời gian tới.