“Né” bảo lãnh phát hành vì cơ chế
Trao đổi với Đầu tư Chứng khoán, ông
Tống Minh Tuấn, Trưởng phòng Tư vấn đầu tư CTCK VCBS cho biết, bảo lãnh
phát hành là một nghiệp vụ quan trọng trên TTCK, là “bà đỡ” cho việc huy
động vốn của các doanh nghiệp, từ đó giúp TTCK thực hiện được chức năng
cơ bản đầu tiên là dẫn vốn cho nền kinh tế. Đồng thời, nghiệp vụ bảo
lãnh phát hành còn góp phần phân bổ nguồn vốn từ lĩnh vực kém hiệu quả
sang lĩnh vực hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, trên thực tế, nghiệp vụ này
gần như “mất hút”, rất ít CTCK duy trì nghiệp vụ bảo lãnh phát hành và
nếu có cũng chủ yếu bảo lãnh phát hành cho những đối tác quen thuộc, khả
năng phát hành thành công cao. Trong số các CTCK đang hoạt động, chỉ
còn một vài cái tên như VCBS, BSC, VPBS còn ghi nhận doanh thu từ hoạt
động này.
Ngay cả với những CTCK lớn, với lượng
khách hàng đông đảo như SSI, HSC,… cũng gần như không còn mặn mà với các
hoạt động bảo lãnh phát hành cổ phiếu, cho dù trong thời gian vừa qua,
rất nhiều doanh nghiệp niêm yết có tiềm năng đánh tiếng sẽ tiến hành
chào bán ra công chúng hoặc phát hành thêm cổ phiếu để huy động vốn.
Lý giải cho sự “mất hút” này, ông Tào
Minh Dương, Giám đốc Dịch vụ M&A, CTCK IB (VIX) cho biết, thực tế,
CTCK nào cũng muốn phát triển nghiệp vụ bảo lãnh phát hành, bởi nó vốn
dĩ là nghiệp vụ mang lại nhiều lợi ích nhất cho các CTCK, đồng thời cũng
là nghiệp vụ thể hiện được uy tín và thương hiệu của một CTCK hiện đại.
Tuy nhiên, cơ chế thực hiện bảo lãnh phát hành như hiện nay thường
khiến các CTCK không kiểm soát được rủi ro khi cam kết bảo lãnh. Đây là
nguyên nhân chính dẫn đến hoạt động bảo lãnh phát hành chưa thể phát
triển.
Hiện nay, việc phát hành cổ phiếu ra
công chúng phần lớn thực hiện theo hình thức phân phối cho cổ đông hiện
hữu theo hình thức thực hiện quyền, người mua cổ phần là các cổ đông tại
ngày chốt quyền, số lượng cổ phần phát hành và giá (trong rất nhiều
trường hợp) đã được ấn định bởi Đại hội đồng cổ đông. Điều này có thể
hiểu là, đến ngày phát hành họ mới đánh giá được phần nào nhu cầu mua
thêm cổ phiếu của các cổ đông, bởi lẽ danh sách cổ đông liên tục biến
động.
Khi đó, nhà bảo lãnh sẽ khó nắm bắt
được nhu cầu mua thực sự là bao nhiêu để có thể cam kết bảo lãnh toàn bộ
hay một phần hoặc không bảo lãnh. Việc không kiểm soát được rủi ro này
là nguyên nhân chính hạn chế CTCK thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành
chứng khoán.
“Quy định hiện tại là nhà bảo lãnh phải
ký cam kết bảo lãnh, trong đó có nêu về giá và số lượng chứng khoán bảo
lãnh để nộp vào hồ sơ xin phát hành cổ phiếu, rồi chờ UBCKNN duyệt. Kể
từ lúc nộp hồ sơ đến khi được duyệt, cho đến lúc phát hành là cả một
quãng thời gian dài đến 2, 3 tháng thì rủi ro cho nhà bảo lãnh là quá
lớn khi không thể kiểm soát được mức độ biến động của giá cổ phiếu. Nếu
giá tăng, bắt buộc mua lại giá thấp thì chả sao, nhưng khi giá giảm sâu
còn 1/3 hay 1/4 giá trị, mà CTCK phải mua lại với giá cao (theo cam kết)
thì quả thực quá nguy hiểm cho CTCK đó, dù có vốn mạnh đến mấy”, ông
Dương nói.
Nên gỡ theo hướng nào?
Đề xuất các giải pháp cho hoạt động bảo
lãnh phát hành chứng khoán, có khá nhiều nội dung được các thành viên
thị trường đưa ra, nhưng tập trung vào một số nội dung chính.
Trước hết, cần phải sớm nhận thức rõ
ràng vai trò của hoạt động bảo lãnh trong việc phát hành. Theo ông
Nguyễn Hoàng Hải, Tổng thư ký Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt
Nam, trên thực tế, sự tiếp cận thông tin chính xác của nhiều nhà đầu tư
nhỏ lẻ trên thị trường là rất yếu và thiếu. UBCKNN đã quyết liệt với vấn
đề này bằng việc ban hành Thông tư 162/2015/TT-BTC.
Trong đó quy định, doanh nghiệp phải
công bố rõ ràng mục đích các đợt phát hành, bao gồm cả báo cáo tình hình
sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán gần nhất được công ty kiểm toán
xác nhận để các cổ đông nắm thông tin và đưa ra biểu quyết.
Tuy nhiên, trong trường hợp ban lãnh đạo
các doanh nghiệp niêm yết nắm quyền chi phối và biểu quyết thì quyết
định vẫn thuộc về họ. Do đó, việc cung cấp thêm một vài thông tin để đợt
phát hành diễn ra thuận lợi theo ý của họ là không quá khó khăn.
Khi nhà bảo lãnh tham gia và ràng buộc
trách nhiệm vào các đợt phát hành, vấn đề của họ không chỉ cam kết mua
lại bao nhiêu, với giá nào, mà đầu tiên họ sẽ phải kiểm định khả năng
thành công của đợt phát hành. Điều này có nghĩa là chính họ phải phân
tích, sàng lọc về khả năng tài chính trong thời điểm hiện tại của doanh
nghiệp liệu có đủ điều kiện và triển vọng để phát hành hay không. Khi
đó, nhà đầu tư sẽ yên tâm hơn khi mua cổ phiếu phát hành thêm mà không
cần phải quan tâm nhiều đến các yếu tố khác.
Tuy nhiên, cũng cần phải hiểu, để việc
thúc đẩy hoạt động bảo lãnh đạt được hiệu quả như mong muốn, cần phải
thay đổi cả cơ chế hoạt động cho nhà bảo lãnh. Với cách quy định như
hiện tại, có thể hiểu, tại thời điểm đánh giá, căn cứ để cam kết bảo
lãnh (toàn bộ, một phần hay không bảo lãnh), nhà bảo lãnh chỉ dựa trên
ước đoán, mô phỏng, hoặc đôi khi do đánh giá chủ quan đối với khả năng
phân phối cổ phiếu.
Về phía cơ quan quản lý, cần sớm nghiên
cứu và xem xét đưa ra hành lang pháp lý cho các phương thức phát hành
mới, ví dụ như phương thức dựng sổ (book building) mà nhiều thị trường
phát triển đang áp dụng.
Cụ thể, theo phương thức này, ngay khi
có yêu cầu về bảo lãnh phát hành cho một doanh nghiệp nào đó, nhà bảo
lãnh có thể đề nghị nhà đầu tư trong danh sách cổ đông hiện hành đăng ký
số cổ phiếu có thể mua hoặc muốn mua (có thể hủy trước ngày phát hành 1
ngày), từ đó họ sẽ đưa ra tư vấn với chính đơn vị phát hành cùng với
cam kết bảo lãnh phát hành.
Như vậy, sai số ước tính trong các báo
cáo để đưa ra đánh giá chính xác tính khả thi của một thương vụ phát
hành sẽ giảm đi rất nhiều, giúp hạn chế việc phân phối cổ phiếu phát
hành thêm thiếu kiểm soát như hiện nay, đồng thời đảm bảo tiết kiệm chi
phí cho doanh nghiệp phát hành.
Trang Ninh - ĐTCK