Kiến thức chứng khoán - Kinh nghiệm đầu tư chứng khoán

Hiển thị các bài đăng có nhãn người lao động. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn người lao động. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 26 tháng 8, 2015

Tại sao 6 triệu người Mỹ thích làm việc bán thời gian hơn?

Hơn 20 triệu người Mỹ làm việc ít hơn 35h/ tuần cho những lý do phi kinh tế, theo nghiên cứu của BLS. Nói một cách khác, đó là lựa chọn có chủ ý, không phải bởi vì họ không tìm được một công việc toàn thời gian.



Với những công việc đa dạng như hiện nay, Matt Tait có thể dễ dàng tìm một công việc toàn thời gian. Nhưng anh ấy muốn tập trung cho việc kinh doanh đồ chơi gỗ của mình và có một hợp đồng làm việc bán thời gian tại Team Detroit, đơn vị quảng cáo của Ford Motor.

Đây là điều đôi bên cùng có lợi. Ông chủ của Tait rất vui khi có anh ấy vì những hoạt động bên ngoài của nhà thiết kế đồ họa 31 tuổi này khiến anh ấy rất sáng tạo. Ngoài ra, Tait cũng có thời gian để điều hành Công ty Tait Design, công ty bán máy bay gỗ balsa và yo-yo bằng gỗ, thiết kế bởi chính anh ấy.

Sáu triệu người Mỹ như Tait đang chọn làm việc bán thời gian, theo báo cáo của Cục Thống kê Lao động Mỹ (BLS). Những người trẻ và mới tốt nghiệp thường không làm vậy vì yếu tố cá nhân hoặc kinh tế không cho phép. Nhiều người đã từ bỏ con đường sự nghiệp truyền thống như cha mẹ họ theo đuổi và làm việc chỉ đủ để trả các hóa đơn hay theo đuổi niềm đam mê: làm đồ chơi, múa rối, những chương trình phi lợi nhuận. Con số này tăng 12% vào năm 2007, theo báo cáo của BLS, một thay đổi có ý nghĩa lớn với nhân sự.

“Lực lượng lao động trong quá khứ được tổ chức xung quanh công ty,” Chauncy Lennon, người điều hành của JPMorgan nói. “Lực lượng lao động của tương lai được tổ chức xung quanh người lao động. Nếu chúng tôi không tìm được đúng người thì sẽ ảnh hưởng đến doanh thu của chúng tôi.”

Các doanh nghiệp quan tâm đến khai thác tiềm năng của người lao động. Team Detroit cho phép Tait được nghỉ một vài tháng để anh ấy có thể tập trung hoàn thành các đơn hàng cho kỳ nghỉ lễ.

Deloitte Tax chia nhỏ các dự án và gửi chúng cho những nhóm làm bán thời gian. Ông lớn dịch vụ khách hàng TeleTech Holdings thông báo công việc cho người lao động và nói với những ông chủ là hiện họ có tiện làm việc hay không.

Hơn 20 triệu người Mỹ làm việc ít hơn 35h/ tuần cho những lý do phi kinh tế, theo nghiên cứu của BLS. Nói một cách khác, đó là lựa chọn có chủ ý, không phải bởi vì họ không tìm được một công việc toàn thời gian. Hai phần ba của 20 triệu người làm việc bán thời gian vì họ còn có nghĩa vụ gia đình, đang đi học hoặc nghỉ hưu.

Một phần ba còn lại là 6 triệu người mà câu chuyện này đề cập- nhiều người trong số họ như Tait, làm việc bán thời gian vì họ không muốn trói buộc vào một công việc hay một ông chủ nào. Không ai có thể biết liệu xu hướng này sẽ giảm thiểu hay lan rộng ra nữa. Nhưng nếu ngày càng nhiều người Mỹ chọn con đường sự nghiệp như thế này, các công ty cũng cần phải thích ứng, John Challenger, nhà điều hành của Challenger, Gray & Christmas, một công ty tư vấn nhân sự ở Chicago nói.
Tait nói rằng anh ấy có thu nhập tốt khi làm việc toàn thời gian với vị trí thiết kế đồ họa 4 năm trước khi gia nhập Team Detroit. “Có một số thứ gì đó mất mát, tôi luôn muốn xây dựng sự nghiệp của riêng mình”, anh ấy nói.

Trong những cuộc phỏng vấn, những lao động 20, 30 tuổi miêu tả về cha mẹ của họ gắn bó với một ông chủ cho cả cuộc đời làm việc, và chỉ mất việc sau khủng hoảng tài chính. Hoặc làm một công việc họ không thực sự thích để duy trì cuộc sống hoặc theo đuổi giấc mơ nước Mỹ. Họ không muốn trở thành những con người như thế.

Andria Caruthers, 27 tuổi, người vừa tốt nghiệp hồi tháng 5 từ trường Đại học Missouri với 2 bằng thạc sĩ ngành báo chí và y tế công, nói rằng cô ấy không có kế hoạch tìm kiếm một công việc toàn thời gian. Cô ấy sẽ tìm kiếm một công việc tự do về marketing số trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe và sống cùng cha mẹ. Cha mẹ cô ấy đều thất nghiệp từ năm 2009 trong cuộc suy thoái sau thời gian làm việc dài. “ Cha mẹ tôi là những nhân viên trung thành trong thời gian dài và có một cuộc sống căng thẳng. Tôi muốn một cuộc sống cân bằng hơn.”

Giống như Tait, Alex Stuart làm việc toàn thời gian trước khi lựa chọn một công việc bán thời gian phù hợp hơn. Anh chàng người Hà Lan, 24 tuổi này tốt nghiệp với một tấm bằng về lịch sử dành 1 năm làm việc tại Singapore cho American Chamber of Commerce. Hiện tại anh ấy làm 2 công việc bán thời gian để thỏa mãn niềm đam mê: tuyển dụng nhân tài cho Major League Soccer ở Mỹ. Stuart sống cùng 4 người khác ở Manhattan, tiết kiệm chi phí bằng cách đi bộ đi làm, và tự nấu ăn để giảm thiểu chi phí. Các web cho phép anh ấy tìm người chơi từ máy tính của mình.

“Tôi muốn một lối sống khôn ngoan hơn để làm những gì tôi muốn, Stuart nói. “Khi thời gian trôi đi, thế hệ của chúng tôi sẽ già đi, tôi nghĩ con đường này sẽ trở nên phổ biến.”

Đến năm 2020, khoảng 40% lực lượng lao động có thể làm việc bán thời gian, theo Mike Preston, giám đốc tài năng của Deloitte. Công ty đã tạo ra Deloitte Open Talent để xác định và kết nối người lao động chọn từ bỏ công việc toàn thời gian để làm những việc khác. Năm ngoái, khoảng 8.000 trong số gần 70.000 công nhân tại Deloitte làm bán thời gian. Những người mà các công ty chỉ tập trung vào thuê toàn thời gian truyền thống đang bỏ lỡ, Preston nói.

Một loạt các dịch vụ mọc lên để phục vụ những người làm bán thời gian tại Mỹ. Freelancers Union, được thành lập vào năm 1995, có thêm một hệ thống mới phối hợp bảo hiểm y tế, nha khoa, kế hoạch hưu trí, và các dịch vụ khác phục vụ cho 263.000 thành viên là những người làm nghề tự do, bán thời gian hoặc không làm việc cho một công ty truyền thống vào năm ngoái.

Từ năm 2000, SnagAJob đã được giúp đỡ lao động theo giờ tìm được việc làm bán thời gian với các công việc khác nhau, từ các lớp học ngôn ngữ đến trợ lý hành chính và lao động trong khách sạn. Working not Working mang đến cho những người làm công việc sáng tạo cách để cho các công ty biết liệu họ có sẵn sàng làm việc không. FlexJobs phục vụ đặc biệt cho những người không muốn làm việc trong văn phòng.
Theo Trí Thức Trẻ/Bloomberg 

>> Những người thành công chuyên làm việc ở nhà


Share:

Thứ Tư, 12 tháng 8, 2015

Vì sao người Pháp làm ít, chơi nhiều, vẫn thành công?

Người Pháp dành trọn tháng 8 để nghỉ ngơi. Các công ty Việt Nam có lẽ sẽ không thích ý tưởng này.

Trong khoảng giữa năm 1853 - 1870, Baron Haussmann đã ra lệnh thay đổi hoàn toàn diện mạo Paris. Những khu nhà ổ chuột bị dỡ bỏ và chuyển thành khu dân cư tư bản, thành phố rối ren trước đây được sắp xếp lại theo đúng trật tự với hàng loạt đại lộ rộng lớn và quảng trường. Những người Paris nghèo khổ cố gắng vùng lên phản đối kế hoạch này nhưng cuối cùng hầu hết buộc phải bỏ chạy. Nhà của họ bị phá huỷ mà không hề có bất kỳ khoản tiền đền bù nào. Paris dường như lột xác hoàn toàn - từ tầng lớp lao động và lối kiến trúc thời trung cổ trở thành giới tư bản và kiến trúc hiện đại - trong khoảng thời gian ít hơn 2 thập kỷ.

Ngày nay, cứ đến tháng 8 hàng năm, Paris lại chứng kiến một sự thay đổi toàn bộ gần giống như vậy. Khách du lịch tràn ngập trên các đường phố đẹp như tranh vẽ. Các cửa hàng đóng cửa. Những giọng điệu của người Anh, Ý hay Tây Ban Nha tràn ngập trên các đường phố Paris vắng tiếng Pháp. Vì sao ư? Vì mỗi người lao động Pháp được nghỉ ít nhất 31 ngày mỗi năm và đa phần đều chọn tháng này cho kỳ nghỉ của mình tại Cannes, Ý hay Tây Ban Nha và Hy Lạp.

Một vài người sẽ coi đây là sự lười biếng nhưng việc dành trọn cả tháng 8 để nghỉ ngơi là cách mà người Pháp tránh để mình rơi vào tình trạng làm việc quá tải. Kỳ nghỉ này thật sự mang lại nhiều lợi ích. Bởi càng làm việc nhiều, năng suất lao động của bạn càng giảm. Giống như quy luật Parkinson từng nêu ra: Công việc luôn tự mở rộng ra để chiếm đủ thời gian được ấn định cho nó. Vì vậy, làm việc ít hơn, bạn sẽ có xu hướng làm tốt hơn.

Thực tế lâu nay chúng ta đều biết rằng làm việc nhiều sẽ gây ra căng thẳng và làm giảm tuổi thọ. Nó cũng khiến bạn giảm mức độ gắn bó với công việc bởi đơn giản sự tập trung không thể duy trì được nhiều hơn 50 giờ mỗi tuần. Ngay cả Henry Ford cũng nhận ra hậu quả của làm việc quá tải khi ông quyết định giảm thời gian làm việc của nhân viên từ 48 giờ/tuần xuống còn 40 giờ. Ông tin rằng làm việc nhiều hơn 40 giờ/tuần sẽ khiến nhân viên gây ra nhiều lỗi.

Tại sao không nên coi nghỉ ngơi như là “thời gian chết” mà thay vào đó là khoảng thời gian để nhìn nhận lại?

Dĩ nhiên, với một số người do đặc điểm công việc có mức lương thấp bị buộc phải làm việc nhiều giờ để kịp tiến độ. Tuy nhiên, tại sao với một số khác - bao gồm cả những người có mức lương khá vẫn làm việc quá tải ngay cả khi họ không bị buộc phải làm như vậy?

Alexandra Michel - một giáo sư tại đại học Pennsylvania nhận ra rằng tại 2 ngân hàng đầu tư danh tiếng (bao gồm cả Goldman Sachs), nhân viên phải làm việc trung bình 120 giờ/tuần (tức là 17 giờ mỗi ngày). Điều này khiến nhân viên không chỉ “xao lãng với gia đình và sức khoẻ của bản thân” mà còn khiến họ làm thêm giờ ngay cả khi sếp không yêu cầu như vậy.

Michel kết luận rằng những cá nhân làm việc chăm chỉ không vì “tiền thưởng, bị phạt hay nghĩa vụ”. Ngoài ra, còn một yếu tố khác là dấu ấn xã hội. Sự bận rộn ngụ ý về vấn đề làm việc chăm chỉ, tức là có nhân cách tốt, học vấn cao và thậm chí sự giàu có trong hiện tại hay tương lai. Cụm từ “Tôi không thể, tôi rất bận” phát đi tín hiệu cho thấy bạn là một người nghiêm túc. Thực tế đây là suy nghĩ của người dân ở rất nhiều nước trên thế giới.

Tuy nhiên, thực tế cuối cùng hạnh phúc không được tìm thấy vào buổi tối muộn khi cố gắng làm việc mà hạnh phúc là khi tìm ra được cách làm việc ít hơn và có nhiều thời gian rảnh rỗi hơn. Lâu nay, đã có nhiều nhà kinh tế viết về những cách đơn giản để sắp xếp lại thời gian làm việc trong ngày dựa trên những cải tiến về công nghệ nhằm giúp mang lại hiệu quả cao hơn. Nhìn chung, chúng ta nên làm việc ít đi, có thể không đạt được mức 15 giờ mỗi tuần, nhưng làm ít giờ hơn sẽ tốt hơn.

Cũng cần phải nói thêm rằng, dù làm việc quá tải dẫn đến giảm năng suất lao động, gia tăng căng thẳng và bệnh tật nhưng đối với công ty mà nói, chi phí sẽ rẻ hơn khi thuê một nhân viên làm việc 80 giờ mỗi tuần thay vì thuê 2 người để làm 40 giờ mỗi tuần.

Hiện một vài công ty đã bắt đầu thích thú với quan điểm “làm việc ít đi nhưng năng suất tốt hơn”. Ví dụ công ty phần mềm có trụ sở tại Michigan, Mỹ là Menlo Innovation công khai đánh giá thấp những nhân viên làm việc hơn 40 giờ mỗi tuần. Họ không xem làm việc quá tải là tín hiệu cho thấy nhân viên đó cống hiến hết mình cho công việc mà là sự không hiệu quả.

Hiện nhiều người vẫn gặp khó khăn trong việc xác định tầm quan trọng cơ bản của công việc so với thời gian rảnh rỗi. Cấu trúc mà nó mang lại, mục đích hướng đến hay ý nghĩa đạo đức thể hiện. Tuy nhiên, sẽ ra sao nếu chúng ta xem những lúc thư giãn không phải “thời gian chết” mà là khoảnh khắc cần thiết để nhìn lại, để tạo cảm hứng sáng tạo, tiết kiệm trí thông minh và năng lượng cho công việc tương lai?

Mặc dù còn có ảnh hưởng của các vấn đề kinh tế nhưng tỷ lệ người Pháp làm việc quá tải chỉ ít hơn 9% so với mức 11% của người Mỹ và 43% của người Thổ Nhĩ Kỳ. Pháp cũng là một trong những nơi có người dân biết cân bằng giữa công việc và cuộc sống tốt nhất thế giới.

Làm việc quá nhiều không chỉ gây tổn thương cho sức khỏe tâm sinh lý mà còn ảnh hưởng tới thời gian mà chúng ta dành cho gia đình. Đây dường như chỉ là biện pháp đánh lừa khát vọng đề cao hành động làm việc, để cảm thấy có hiệu quả (dù thực tế không phải vậy) hay đơn giản để có thể nói với mọi người rằng “tôi rất bận” như một sự ám chỉ về địa vị trong xã hội.
(Theo Trí Thức Trẻ/BI)
 
>> Bí quyết làm ít được nhiều của người Đức: 'Tắt Facebook trong giờ làm'


Share:

Thứ Bảy, 8 tháng 8, 2015

10 quốc gia trả lương cao nhất thế giới

Mức lương thực tế là khoản tiền kiếm được mỗi năm sau khi trừ các khoản thuế và khoản chuyển nhượng, nghĩa là số tiền sẵn có để chi tiêu cho hàng hóa hoặc dịch vụ. 

Sau đây là 10 nước mà người lao động được hưởng mức lương thực tế cao nhất. Con số thể hiện mức lương thực tế trung bình này dựa vào kết quả nghiên cứu của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (Organization for Economic Cooperation and Development - OECD), được tính toán cho từng lao động không có con nhỏ.

1. Mỹ
Không có gì nghi ngờ về việc Mỹ là quốc gia hùng mạnh nhất thế giới. Mỹ có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, là nhà nhập khẩu lớn nhất nhưng đứng thứ hai về xuất khẩu trên toàn thế giới.
Người lao động Mỹ nhận được 41,355 USD hàng năm sau khi 31,6% thuế bị khấu trừ.

Tuy nhiên ở nước Mỹ, nhiều người không có bảo hiểm y tế. Trong thực tế, Mỹ đứng đầu về chi tiêu cho chăm sóc sức khỏe nhưng đứng cuối về độ bao phủ, chính phủ cũng không hề có trợ cấp thai sản cho người dân.

2. Luxembourg

Luxembourg ít nhiều cũng là trung tâm tài chính của châu Âu. Đây là nhà cung cấp chính về thép của toàn châu Âu, thị trường xuất khẩu của Luxembourg bao gồm hóa chất, cao su, máy móc công nghiệp và cả dịch vụ tài chính.

Thu nhập trung bình sau thuế ở đây là 38,951 USD hàng năm, còn mức thuế là 37,7% để cung cấp cho các hoạt động an sinh xã hội.

3. Na Uy
Na Uy là một trong những quốc gia giàu có nhất về tài nguyên thiên nhiên bao gồm dầu, thủy điện, đánh bắt cá và khoáng sản. Với mức thuế khoảng 37% thu nhập, Na Uy cũng có một hệ thống chăm sóc sức khỏe toàn diện và giáo dục bậc đại học cho công dân.

Với số giờ làm việc mỗi tuần trung bình là 33,4 giờ, người lao động nhận được thu nhập thực tế hàng năm là 33,492 USD.

4. Thụy Sĩ 

Thụy Sĩ xếp hạng cao trong các yếu tố về sự minh bạch của chính phủ, quyền tự do công dân, chất lượng cuộc sống, khả năng cạnh tranh kinh tế và phát triển con người. Không ngạc nhiên khi nước này đứng thứ 3 trong nghiên cứu về sự hài lòng cuộc sống của OECD.

Lĩnh vực sản xuất của Thụy Sĩ quan trọng và phát triển mạnh mẽ nhất châu Âu. Thụy Sĩ sản xuất vật dụng y tế, dược phẩm, hóa chất chuyên dụng và nhạc cụ. Người Thụy Sĩ có thu nhập hàng năm là 33,419 USD và làm việc khoảng 35 giờ/tuần.

5. Úc
Úc là một trong những nước có nền kinh tế mạnh mẽ nhất thế giới, là nhà xuất khẩu lớn về thực phẩm cũng như dầu và khoáng sản, nhập khẩu tương đối ít. Về sự giàu có bình quân, Úc xếp thứ 2 sau Thụy Sĩ vào năm 2013.

Thu nhập trung bình của người dân ở đây là 31,588 USD/năm với tỷ lệ thuế khoảng 27,7%, dùng để đảm bảo cho công dân có sức khỏe và nền giáo dục tốt. Người Úc làm việc trung bình 36 giờ/tuần.

6. Đức

Đức là nước có nền kinh tế quốc dân quyền lực nhất châu Âu. Tuy nhiên, đây cũng là một quốc gia có tỷ lệ thuế từ thu nhập của công dân cao nhất: 49,8%.

Dù vậy, Đức có hệ thống chăm sóc sức khỏe lâu đời nhất thế giới, người dân được chăm sóc sức khỏe và giáo dục ở tất cả các bậc hoàn toàn miễn phí. Thu nhập thực tế hàng năm của người dân Đức là 31,252 USD.

7. Áo
Đất nước Trung Âu với cảnh quan tuyệt đẹp và lịch sử đầy phiêu lưu này có GDP trung bình đầu người đứng thứ 12 thế giới. Nước Áo có nền công nghiệp phát triển mạnh, bên cạnh đó, phần quan trọng nhất trong nền kinh tế là du lịch quốc tế, chiếm đến 9% GDP.

Người lao động nhận được trung bình 31,173 USD sau thuế - một khoản khá lớn nếu xét đến 49.4% bị mất do thuế thu nhập và các khoản đóng góp an sinh xã hội. Khoản tiền này sẽ chi dùng cho chăm sóc sức khỏe phổ thông và giáo dục đại học.

8. Canada 

Canada là hàng xóm phía Bắc của Mỹ, nơi sở hữu trữ lượng dầu mỏ lớn thứ 3 thế giới (chỉ sau Venezuela và A rập Saudi). Đất nước này cũng rất giàu có về nhôm, uranium, vàng, niken, kẽm và vùng đồng bằng của Canada là một trong những nơi sản xuất nông sản quan trọng của toàn thế giới (lúa mì, dầu cải và các loại ngũ cốc khác).

Thu nhập thực tế hàng năm của người Canada trung bình trong khoảng 29,365 USD với tỷ lệ thuế khoảng 31% (chi trả cho chăm sóc sức khỏe và giáo dục cộng đồng). Một tuần làm việc trung bình của người Canada là 36 giờ.

9. Thụy Điển
Theo dữ liệu của Ngân hàng Thế giới, Vương quốc Scandinavian xinh đẹp này là quốc gia giàu thứ 6 thế giới nếu xét GDP bình quân đầu người.

Thụy Điển là một quốc gia có nền kinh tế hỗn hợp theo định hướng xuất khẩu gỗ, thủy điện và quặng sắt. Điều này tạo nên nền kinh tế chú trọng về ngoại thương. Các ngành kỹ thuật của Thụy Điển chiếm tới 50% sản lượng và xuất khẩu.

Quốc gia này duy trì một hệ thống phúc lợi xã hội của Bắc Âu, cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe phổ thông và giáo dục đại học cho công dân. Do đó, mỗi người phải từ bỏ 42,4% thu nhập của họ nhưng trung bình họ vẫn nhận được 29,185 USD mỗi năm.

10. Pháp
Pháp được xếp thứ 7 trong các nền kinh tế lớn nhất thế giới. Để giải thích tại sao GDP bình quân đầu người của Pháp lại thấp hơn của Mỹ, nhà kinh tế học Paul Krugman khẳng định rằng: “Người lao động của Pháp có năng suất lao động xấp xỉ người Mỹ, nhưng người Pháp bị cáo buộc rằng có một tỷ lệ tham gia lao động thấp hơn và khi họ làm việc, họ làm ít thời gian hơn".

Đó có thể do điều luật làm việc 35 giờ/tuần ban hành năm 1999. Cho dù vậy, người Pháp vẫn nhận được 28,799 USD mỗi năm sau khi trừ các loại thuế (trung bình là 49%). Đây cũng là nước có gánh nặng thuế lớn thứ 2 trong các nước OECD.
(Tri Thức Trẻ)
Share:

Trang

Nổi bật

Giới siêu giàu kiếm tiền từ đâu?