Ben Graham và Phil Fisher là hai trong số những người có ảnh hưởng lớn
đến triết lý đầu tư của Warren Buffett. Tuy nhiên, hai nhà đầu tư này
lại có nhiều quan điểm khác nhau, trong đó bao gồm vấn đề cổ tức.

Benjamin Graham (1894-1976). Ảnh: Wikipedia
Không phải nhà đầu tư Việt nào cũng có cái nhìn đúng về cổ tức – một
khái niệm quan trọng trong đầu tư cổ phiếu niêm yết. Bài viết này nhằm
giúp nhà đầu tư Việt thấy được quyền lợi của mình và đánh giá đúng khái
niệm này khi ra quyết định đầu tư.
Tại sao cổ tức lại quan trọng với nhà đầu tư?
Đa phần các nhà đầu tư cá nhân không phải là cổ đông chiến lược của
công ty mà mình đầu tư vào, và do đó không có được nhiều tiếng nói có
trọng lượng trong chiến lược kinh doanh và phát triển của công ty. Vì
vậy, việc được nhận cổ tức không chỉ mang lại ý nghĩa về mặt lợi nhuận
tài chính đơn thuần, mà còn là một sự cam kết của công ty đại chúng đối
với quyền lợi của các cổ đông nhỏ, vốn cũng là những chủ sở hữu của công
ty.
Cổ tức bằng tiền mặt hay bằng cổ phiếu tốt hơn?
“Mục đích căn bản của một doanh nghiệp là trả cổ tức cho chủ sở hữu của nó”. Benjamin Graham và David L. Dodd, Security Analysis (1934). |
Về nguyên tắc, cổ tức bằng tiền mặt mang lại lợi ích trước mắt cho cổ đông về mặt lợi nhuận tài chính, trong khi cổ tức bằng cổ phiếu mang lại lợi ích về thanh khoản nhưng thường mất thời gian để hoàn thành. Đa số các nhà đầu tư có kinh nghiệm thường muốn nhận cổ tức bằng tiền mặt (sau thuế). Mặc dù vậy, cổ tức tiền mặt làm giảm vốn hóa công ty (do một phần lợi ích kinh tế đã được chuyển giao cho cổ đông) trong khi cổ tức bằng cổ phiếu không thay đổi vốn hóa công ty.
Có phải cổ tức càng cao thì càng tốt?
Cổ tức cao hay không, không quan trọng bằng một chính sách cổ tức nhất
quán. Do cổ tức thường có liên hệ mật thiết với lợi nhuận công ty, nên
một chính sách cổ tức nhất quán thường đi kèm với một tỷ lệ trả cổ tức (payout ratio) nhất định, được tính toán bằng lượng cổ tức phải trả chia cho lợi nhuận sau thuế của công ty.
Vinamilk là một trong số ít các doanh nghiệp niêm yết ở Việt Nam tuân
thủ thông lệ quốc tế và công khai tỷ lệ trả cổ tức bằng tiền mặt ở mức
tối thiểu 50% lợi nhuận sau thuế, thông qua các Nghị quyết Đại hội cổ
đông thường niên. Mặt khác, cũng có những doanh nghiệp sử dụng chính
sách cổ tức cố định, ví dụ như StarHub (một trong ba nhà mạng lớn ở
Singapore), với mục đích giúp nhà đầu tư dễ dàng yên tâm với số tiền
nhận được hằng năm, kèm theo tiềm năng tăng giá của cổ phiếu.
Việc doanh nghiệp trả cổ tức cao bất thường ở một thời điểm nhất định
không phải lúc nào cũng nhận được sự ủng hộ của thị trường, do (1) nhà
đầu tư không chắc chắn về sự phát triển bền vững trong tương lai của
công ty và (2) giá cổ phiếu sẽ bị điều chỉnh giảm ngay sau khi cổ tức
bằng tiền mặt được trả.

Phil. A. Fisher (1907-2004). Ảnh: Wikipedia |
Ngược lại, có nhiều doanh nghiệp đang ở trong giai đoạn tăng trưởng cao
và mong muốn giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư, mở rộng kinh doanh sản
xuất. Những doanh nghiệp này có thể ít hoặc không trả cổ tức tiền mặt
trong nhiều năm.
Ví dụ, trước khi Microsoft bắt đầu trả cổ tức tiền mặt lần đầu tiên vào
năm 2003, giá cổ phiếu đã tăng bình quân khoảng 30%/năm kể từ khi doanh
nghiệp này niêm yết vào năm 1986.
Tỷ lệ cổ tức (theo mệnh giá) ở Việt Nam nên được hiểu thế nào?
Theo thông lệ thị trường Việt Nam, cổ tức thường được hiển thị dưới
dạng phần trăm mệnh giá. Mệnh giá hiện được cố định ở mức 10.000 đồng/cổ
phiếu và nhằm giúp nhà đầu tư dễ dàng tính toán số lượng cổ tức thực
nhận được hằng năm. Tuy nhiên, tỷ lệ phần trăm này không có nhiều ý
nghĩa trong việc đánh giá mức độ hấp dẫn của cổ tức.
“Điều quan trọng là chính sách cổ tức không nên được đề cao tới mức làm hạn chế khả năng tăng trưởng của doanh nghiệp”. Philip A. Fisher, Common Stocks and Uncommon Profits (1958). |
Các công ty đại chúng ở Việt Nam không phải lúc nào cũng điều chỉnh vốn
điều lệ kịp thời để phản ánh tình hình kinh doanh và tăng trưởng vốn
chủ sở hữu. Do vậy, có rất nhiều trường hợp giá cổ phiếu đã tăng cao,
phù hợp với kết quả kinh doanh, nhưng vốn điều lệ chưa kịp tăng tương
ứng, dẫn đến tỷ lệ phần trăm cổ tức trên mệnh giá là một con số có giá
trị bề ngoài cao nhưng lại khá thấp khi so với thị giá cổ phiếu mà nhà
đầu tư cần bỏ tiền ra mua.
Theo thông lệ quốc tế, nhà đầu tư thường sử dụng tỷ suất cổ tức (dividend yield),
được tính bằng lượng cổ tức được nhận cho mỗi cổ phiếu chia cho thị giá
cổ phiếu để tính toán mức độ hấp dẫn của cổ phiếu này.
Nhà đầu tư cần làm gì?
- Khi doanh nghiệp công bố tỷ lệ chi trả cổ tức được hiển thị dưới dạng
phần trăm mệnh giá, nhà đầu tư cần quy đổi ra giá trị tuyệt đối (ví dụ
tỷ lệ 50% được hiểu là 5.000 đồng/cổ phiếu) rồi tính tỷ suất cổ tức dựa
trên thị giá hiện tại.
- Khi doanh nghiệp công bố kế hoạch chi trả (hoặc không chi trả) cổ
tức, nhà đầu tư nên tìm hiểu kế hoạch này có phù hợp với tình hình kinh
doanh và triển vọng của doanh nghiệp hay không.
- Nhà đầu tư có thể tham khảo các cuốn sách của Benjamin Graham (đầu tư
giá trị) và Philip Fisher (đầu tư tăng trưởng), vốn có những góc nhìn
rất khác nhau về cổ tức, để hiểu vì sao triết lý đầu tư của Warren Buffett lại bị ảnh hưởng bởi cả hai nhà đầu tư huyền thoại này.
Source: http://www.thesaigontimes.vn/165403/Nha-dau-tu-Viet-da-hieu-dung-ve-co-tuc.html