Kiến thức chứng khoán - Kinh nghiệm đầu tư chứng khoán

Hiển thị các bài đăng có nhãn lạc quan. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn lạc quan. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 30 tháng 11, 2016

"Nghĩ giàu làm giàu" đã dạy ta sai cách: Cách thực sự để vực dậy khi xuống tinh thần

Khi cả thế giới đều trông ảm đạm, liệu tư duy tích cực có thể là câu trả lời cho mọi phiền não? Bài viết thú vị về các giải pháp để có được hạnh phúc trong lịch sử từ cổ chí kim, dưới nhiều góc nhìn thú vị.


Khi Napoleon Hill bắt đầu tìm hiểu về nguyên tắc bí mật ẩn sau mọi thành công của con người, ông thật sự đã rất chuyên tâm và mẫn cán. Trong hơn hai thập kỷ, ông đã phỏng vấn những doanh nhân xuất sắc (Thomas Edison, Henry Ford, Alexander Graham Bell), những nhà tài phiệt hàng đầu (John D Rockefeller, Charles Schwab) và những chính trị gia kiệt xuất (Theodore Roosevelt, Woodrow Wilson – và Joseph Stalin, điều này nói lên phần nào định nghĩa về sự “thành công” đang được bàn tới trong bài viết này). Sinh ra tại vùng núi Appalachia của Mỹ trong cảnh nghèo khó, Hill muốn biết được điểm chung của tất cả những người ông đã phỏng vấn: làm thế nào họ đạt được sự giàu có, quyền lực, danh tiếng, và tất nhiên có cả sự toại nguyện.

Đây là một câu hỏi thú vị, và do vậy câu trả lời đơn giản Hill đưa ra trong cuốn sách xuất bản năm 1937 Think and Grow Rich (13 Nguyên tắc nghĩ giàu, làm giàu) lại khiến chúng ta có phần thất vọng. Ông viết rằng, “ĐÍCH THỰC”, (hẳn rằng ông vô cùng tâm đắc với những chữ cái viết hoa), “tư duy có sức mạnh vô cùng to lớn, đặc biệt khi nó được hòa quyện cùng với mục tiêu, sự kiên trì và một HAM MUỐN CHÁY BỎNG tuyệt đối.

Ông giải thích rằng nếu bạn có thể hòa vào “sức nóng mạnh mẽ của từ HAM MUỐN”, nếu bạn có thể “hình dung, cảm nhận và tin rằng bản thân mình đã giàu có hay thành công”, thì bạn hoàn toàn có thể giàu có và thành công. Nói tóm lại: tư duy tích cực. Hay đúng ra phải viết là TƯ DUY TÍCH CỰC. Đơn giản là vậy.

Thông điệp này khó có thể được tiếp nhận dễ dàng khi mà ta đã phải trải qua cuộc Đại Khủng Hoảng. Nền kinh tế nằm dưới sự tác động của nhiều nguồn lực khác nhau; thất nghiệp cùng nghèo đói trên diện rộng hoàn toàn nằm ngoài tầm kiểm soát của các cá nhân – vì vậy, nếu ai nói rằng đơn giản bạn chỉ cần giải phóng suy nghĩ khỏi những điều đó thì chẳng khác nào người đó đang muốn ăn một cú đấm vào mặt. Nhưng Nghĩ giàu làm giàu đã được tiên định sẽ được xếp vào hàng ngũ bestseller. Cuốn Đắc Nhân Tâm) của Dale Carnegie xuất bản một năm sau đó (1936) cũng như vậy, một cuốn sách cũng toát lên tinh thần lạc quan tương tự. Sau Khủng hoảng, phong trào Tư duy Tích cực hiện đại ra đời.

Nếu như chúng ta thấy mình khó có thể chấp nhận được chủ nghĩa tư duy tích tích cực này trong thời kỳ khó khăn kinh tế, thì có lẽ đó là vì ít nhiều trong sâu thẳm chúng ta, ta đồng tình với những điều Barbara Ehrenreich nói trong cuốn Bright-sided (Mặt sáng): bà chê trách tư duy tích cực vì đã góp phần tạo nên cục diện suy thoái hiện tại ngay từ những ngày đầu.

Bà lập luận:

Câu thần chú 'chỉ cần muốn, bạn có thể có tất cả' đã trở nên quá phổ biến trong giới kinh doanh. Tất cả những chồng sách trong hiệu sách đặt tại sân bay đều như đang hét lên phản đối tính “bi quan” và khuyên người đọc phải luôn lạc quan, vui vẻ và tràn đầy tự tin.

Cuối cùng, khủng hoảng thế chấp này là gì, nếu đó không phải xuất phát từ lời tuyên ngôn của các ngân hàng và người đi vay, rằng nếu bạn thật sự muốn điều gì đó, bạn không cần phải lo lắng về khả năng thất bại?
[…]
Nếu như bạn đang cảm nhận được cuộc khủng hoảng tài chính đang tác động tiêu cực lên cuộc sống của mình, gần như chắc chắn là bạn sẽ không muốn ai tới khuyên bạn phải suy nghĩ tích cực.

Một lý do khác có thể là vì bạn đã cố gắng thử áp dụng các phương pháp trong sách, rồi phát hiện ra rằng chúng không có tác dụng gì cả. Một nghiên cứu đăng trên tạp chí Psychological Science tháng trước chỉ ra rằng việc tự nói với bản thân những câu khích lệ đầy lạc quan như “Mình là 1 người đáng yêu” lại thường khiến tinh thần của những người vốn kém tự tin tụt xuống, thay vì được nâng cao.

Tất cả những điều này đặt ra một câu hỏi: Nếu như những thứ phương pháp đó không thể khiến ta cải thiện tâm trạng trong cảnh đau buồn, vậy điều gì có thể làm được?
Trong các năm qua, thi thoảng tôi lại viết một cuốn “Nhật ký cảm ơn” (Gratitude journal) – theo cách gọi của nhà tâm lý học Sonja Lyubomirsky tại Đại học California: một cuốn sổ liệt kê khoảng 3-5 điều khiến tôi cảm thấy biết ơn. Thực ra, tôi rất ngại khi phải thừa nhận điều này. Việc giữ cuốn sổ này hoàn toàn mâu thuẫn với những gì tôi nhìn nhận về chính mình: một người Anh lúc nào cũng hoài nghi, lý trí và hay nói lời mỉa mai, châm chọc, miễn nhiễm với những cám dỗ sến sủa, hay những thứ vớ vẩn giúp tâm trạng tốt hơn. Bên cạnh đó, tôi cũng rất nghi ngờ những phương pháp có thể biến tôi thành người lúc nào cũng mỉm cười được và không bao giờ phàn nàn: có lẽ chúng ta nên giận dữ và buồn bã về những điều như thái độ của các chính trị gia hay tình trạng khí hậu hiện tại.

Điều khó xử ở đây chính là việc giữ một cuốn nhật ký cảm ơn như vậy đã giữ cho tâm trạng của tôi thay đổi rõ rệt.

Tôi không phải người duy nhất thấy vậy: các nghiên cứu do Lyubomirsky và đồng nghiệp thực hiện chỉ ra rằng việc ghi chép này giúp mức hạnh phúc tăng lên rõ rệt so với nhóm kiểm soát (dù rằng hạnh phúc là một khái niệm mang tính chủ quan, nhưng bạn có thể yên tâm rằng họ đã tìm được cách đo đạc nó ở mức chính xác phổ quát nhất). Và tôi hân hạnh được chia sẻ với các bạn rằng, có lẽ chính việc tôi không thể viết nhật ký hàng ngày về bất cứ điều gì lại là một trong các lý do khiến phương pháp này có tác dụng. Nhóm của Lyubomirsky không ghi nhận được bất cứ sự cải thiện nào về chỉ số hạnh phúc ở những người viết nhật ký hàng ngày, nhưng lại ghi nhận được những cải thiện lớn lao đối với những người làm vậy theo từng tuần. Có lẽ là bởi những người như tôi sẽ không cảm thấy chán trò này, hay cũng không vì thế nảy sinh tư tưởng rằng chuyện cảm thấy biết ơn là thứ đương nhiên.

Thật may là trong cuốn The How of Happiness (tạm dịch: Làm sao để hạnh phúc), Lyubomirsky đã công nhận sự tồn tại của cảm giác xấu hổ ngượng ngùng khi viết nhật ký cảm ơn. Bà nhận định, một vài phương pháp trông có vẻ “ngốc nghếch… tốt thì cũng là trò vặt vãnh, còn tệ nhất thì rõ sến sẩm” - thật ra lại là cách hiệu quả giúp bạn hạnh phúc, vui vẻ hơn. Có thể chúng ta sẽ phải lựa chọn giữa việc thờ ơ mọi điều sến sẩm của cách làm này với việc chấm dứt tình trạng buồn bã.

Phát hiện của Lyubomirsky về lòng biết ơn hình thành nên một phần của ngành tâm lý học tích cực – cho tới nay đã có lịch sử 10 năm và đã tạo nên một cuộc cách mạng trong nghiên cứu về tâm trí con người. Nhờ chuyển đổi góc nhìn đơn giản – từ việc tập trung gần như tuyệt đối vào nghiên cứu rối loạn tâm thần như nhiều thập kỷ trước sang nghiên cứu nguyên nhân hình thành hạnh phúc giản đơn và “sự thăng hoa”. Freud có một nhận định nổi tiếng về sứ mệnh của ngành phân tâm học, đó chính là biến “đau khổ” sang “nỗi buồn bình thường”. Tuy nhiên, trong một phát biểu có tính bước ngoặt năm 1998, Martin Seligman, giáo sư của Đại học Pennsylvania, người có công mở ra ngành tâm lý học tích cực, cũng đã buộc tội những người bạn đồng nghiệp của mình đã bỏ quên nhiệm vụ “giúp những người ít gặp vấn đề về tâm lý trở nên vui vẻ hơn”.

Các thí nghiệm được thực hiện trong thập kỷ ngay sau đó đã thổi bùng nên sự ra đời các cuốn sách về hạnh phúc: ước tính chỉ riêng năm 2008 đã có 4.000 cuốn được xuất bản. Những cuốn hay nhất (bao gồm các tác phẩm của Lyubomirsky, Authentic Happiness của Seligman, Stumbling on Happiness của Daniel Gilbert và The Happiness Hypothesis của Jonathan Haidt) đã vượt xa mọi chỉnh sửa nhanh chóng sau đó về tư duy tích cực. “Tâm lý học tích cực là về việc tiếp thu các kỹ năng cho việc phục hồi, cam kết, có mục tiêu và các mối quan hệ tích cực”, Seligman phát biểu. “Và không có kỹ năng nào là đơn giản. Chỉ có chứng lo âu và trầm cảm là dễ gặp phải”.

Chính tính cách của Seligman đã chứng minh điều này: những người phỏng vấn vốn mong đợi vào một huấn luyện viên tràn đầy cảm hứng đã rất ngạc nhiên khi khám phá ra ông là người tẻ nhạt, hay cáu kỉnh và tự nhận mình thuộc nhóm “người thô lỗ cáu bẳn, bi quan và trầm cảm”. Ông đã áp dụng thành công những phát hiện của mình vào trường hợp của bản thân, từ đó dịch chuyển “vạch xuất phát” hạnh phúc theo hướng đi lên, mặc dù tính cáu bẳn vẫn không thay đổi. “Dù vậy, bất cứ khi nào tôi thuyết minh về điều này, điều đầu tiên tôi thường gặp phải là ‘ồ, đó chính là kiểu lạc quan hời hợt, hớn hở của người Mỹ’.

Thực vậy, những gì chúng ta học được từ tâm lý học tích cực thường khá nghiêm túc và thực tế, không giống với cách nghĩ thần kỳ như mô tả của Napoleon Hill hay trong cuốn The Secret. Chúng ta đã biết về các cuốn nhật ký cảm ơn. Chúng ta học được rằng việc ghi lại những vấn đề cá nhân trong nhật ký có thể có tác động tích cực không chỉ lên tâm trạng, mà còn lên cả những chỉ số khách quan về sức khỏe của cơ thể. (Các nhà nghiên cứu tại New Zealand phát hiện ra rằng các bài tập viết 30 phút mỗi ngày giúp làm tăng mức độ CD4 lymphocytes, một chỉ số về chức năng miễn dịch của bệnh nhân AIDS). Nhìn chung, mọi người đều khá tệ trong việc đoán những điều có thể làm họ hạnh phúc, và khi phải xem xét những lựa chọn quan trọng trong cuộc đời, chúng ta thường cho rằng sẽ khôn ngoan hơn nếu chọn theo điều đa số đã làm trước đó. Chúng ta học được rằng thích nghi là kẻ thù lớn nhất của hạnh phúc: dù trải nghiệm của chúng ta có tích cực thế nào, chúng ta cũng sẽ quen dần và rồi bắt đầu cảm thấy nhàm chán. Vì vậy tìm kiếm những điều mới mẻ trong cuộc sống chỉ để thỏa mãn ham muốn trải nghiệm cái mới có thể là một chiến lược hợp lý. Nhưng điều giúp ta an tâm nhất, có lẽ là con người kiên trì, bền bỉ hơn họ nghĩ rất nhiều. Thậm chí khi đối mặt với những khủng hoảng như chiến tranh, động đất, lũ lụt, gần như ¾ loài người không mắc phải rối loạn stress sau sang chấn.

Tuy các phát hiện này còn khá khiêm tốn, nhưng dễ dàng nhận thấy đã có những phản ứng dữ dội về “ngành công nghiệp hạnh phúc”, một khái niệm thường bị đánh đồng giữa những kẻ buôn lậu thuốc chống trầm cảm với các bậc thầy về tư duy tích cực self-help hay những nhà tâm lý học tích cực nhiệt thành. “Người hạnh phúc là người nông cạn”, Eric Wilson, một học giả văn học đã viết như vậy trong cuốn Against Happiness, buộc tội ngành tâm lý học hiện đại vì đã “gạt bỏ giá trị của nỗi buồn một cách hèn nhát”. Trong cuốn The Loss of Sadness, hai nhà xã hội học Jerome Wakefield và Allan Horwitz cũng đưa ra quan điểm tương tự. Họ lập luận rằng con người đang quá thiết tha với việc chữa trị những buồn đau thông thường. Chúng ta vội vàng đi kê đơn hay can thiệp bằng liệu pháp cho những người đau khổ vì chia tay hay vì cái chết của ai đó.

Đương nhiên những lập luận này cũng có điểm đúng. Nhưng những nhà phê bình công kích tâm lý học tích cực thường mắc một lỗi nghiêm trọng: khi các nhà tâm lý học tích cực đương đại nói về niềm hạnh phúc, họ không chỉ đơn thuần nói về trạng thái tâm lý tích cực.

Có lẽ chúng ta không thể đạt được trạng thái hưng phấn liên tục và nếu đạt được, đó là dấu hiệu vấn đề về tính cách chứ không phải tình trạng tâm lý. Nhà nghiên cứu Barbara Fredrickson đã đưa ra một tỉ lệ lý tưởng là cứ mỗi 3 trải nghiệm hay cảm xúc tích cực, ta lại có 1 trải nghiệm và cảm xúc tiêu cực, tất nhiên tỉ lệ này không thể là 1:0. Sau mất mát, nỗi đau giúp cho vết thương được chữa lành; nỗi sợ hãi, tất nhiên, chính là một chỉ số cần thiết đánh giá mức độ nguy hiểm. Nhưng tâm lý học tích cực “không phải môn khoa học giúp cải thiện tinh thần”, Seligman nhấn mạnh. Thay vào đó, ông xác định được ba loại hạnh phúc khác nhau. Thứ nhất là “cuộc sống dễ chịu” – đây thường là mục tiêu công kích của những nhà phê bình tâm lý học tích cực. Thứ hai là “cuộc sống tốt”, nghĩa là “nhận biết các giá trị, điểm mạnh nhất của bản thân, và luôn tận dụng chúng”. Cuối cùng là “cuộc sống có ý nghĩa”, dùng điểm mạnh của mình vào những việc to lớn hơn những điều mang tính cá nhân.

Hai loại hạnh phúc cuối cùng không gắn liền với niềm vui bất tận. Một phần do nó bao gồm cả những cảm xúc tiêu cực và một phần vì trong những chặng đường tuyệt vời nhất của cuộc sống “tốt” hay “có ý nghĩa”, chúng ta hiếm khi nhận ra cảm xúc của mình: chúng ta thường ở trong một trạng thái mà nhà tâm lý học Mihaly Csikszentmihalyi gọi là “dòng chảy”.

Chỉ khi ngồi chiêm nghiệm lại, chúng ta mới nhận ra mình đã mãn nguyện thế nào.

Một trong những kết luận đặc biệt phù hợp với thời điểm hiện tại của tâm lý học tích cực chính là không có loại hạnh phúc nào đặc biệt liên quan tới thu nhập: trên một ngưỡng nhất định, hiệu ứng cải thiện hạnh phúc của đồng tiền sẽ giảm xuống nhanh chóng. Seligman, người mất 25% số tiền tiết kiệm cả đời trong một lần thị trường chứng khoán bị sụp đổ, lại tiếp nhận điều này một cách khá dễ chịu. “Khoa học chỉ ra rằng chỉ số sức khỏe của con người phụ thuộc một phần vào vật chất, của cải, đặc biệt là khi điều này ở dưới mức an toàn, nhưng ở trên mức này rồi thì ý nghĩa cuộc sống và các mối quan hệ tốt đẹp mới quan trọng. Mất một phần tư số tiền tiết kiệm cả đời đúng là một cú choáng người, nhưng khi so sánh nó với những mối quan hệ tốt đẹp thì điều này chẳng là gì cả”.

Càng đọc cuốn Nghĩ giàu làm giàu của Napoleon Hill, bạn sẽ càng thấy luận điểm của ông ấy thiếu thuyết phục. Đầu tiên, ông ấy không đưa ra bằng chứng thực tế nào cho thấy những người giàu có và nổi tiếng mà ông ấy phỏng vấn thực sự hạnh phúc. Kể cả khi cứ cho là họ hạnh phúc đi, Hill ngày càng trở nên kém thuyết phục hơn trong nỗ lực khẳng định lý do dẫn tới hạnh phúc là người nào đấy đã chia sẻ Bí quyết Thành công - dù mỗi người là những tổ hợp khác biệt về kỹ năng, tinh thần phấn đấu, trí tuệ, kế hoạch, đặc quyền, tham vọng và may mắn. (May mắn có thể là một nhân tố đặc biệt bị bóp méo: hàng nghìn người khác có thể đã tư duy tích cực chính xác như vậy, nhưng rồi lại thất bại. Sẽ không có gì là ngạc nhiên khi Hill không bao giờ phỏng vấn những người này.)
Những phát hiện của tâm lý học tích cực có một lợi thế khó có thể bì được vì chúng đều được chứng minh thông qua các nghiên cứu thực nghiệm, nhưng ngoài ra còn có một lý do khác khiến chúng ta thấy những điều này thật đúng đắn. Các phát hiện này đều khiêm tốn, phong phú và khác biệt: nó giúp trực giác của chúng ta biết rằng hạnh phúc là một tổ hợp tạo thành từ nhiều lý do khác nhau, bao gồm các thử nghiệm đúng sai, và phù hợp với lẽ thường; rằng không có một bí mật duy nhất hay cách chữa trị nhanh chóng nào đang đợi chúng ta khám phá và nếu làm vậy, chúng ta chỉ chuốc lấy khổ sở thôi. Lời khuyên rất đơn giản. Luôn ghi nhớ phải biết ơn.

Hãy chi tiền để thu về các trải nghiệm, không phải vật chất. Đi tình nguyện. Nuôi dưỡng các mối quan hệ. Dành thời gian với thiên nhiên. Hãy chắc chắn rằng bạn gặp gỡ những người mới, đến những địa điểm mới. Và không bao giờ được mặc định rằng bạn biết rõ điều gì sẽ khiến mình hạnh phúc.

Một số lời khuyên trên nghe giống như những lời dạy bảo của các cụ, hay một tràng những lời sáo rỗng cũ rích. Nhưng chắc chắn rằng đấy là những điều đáng suy nghĩ, bởi vì chúng đúng đắn.
Nguyễn Thị Bích Ngà
Theo Trí Thức Trẻ/Trạm Đọc
Share:

Thứ Ba, 20 tháng 10, 2015

10 tố chất của người có triển vọng thăng tiến nhanh

Theo các chuyên gia, thăng tiến trong nghề nghiệp không phải là một quá trình “tự động” theo kiểu “đến hẹn lại lên”, nhất là trong những môi trường làm việc cạnh tranh. Những nhân viên không làm gì mà chỉ ngồi chờ cơ hội đến thường sẽ trở nên thất vọng và mệt mỏi. Ngược lại, những nhân viên chủ động tìm kiếm và nắm bắt các cơ hội thường sẽ “may mắn” hơn những nhân viên khác.
http://www.blogchungkhoan.com/2015/09/mo-tai-khoan-tu-van-au-tu-chung-khoan.html#.ViU5925mqsW
Susan Patel - Phó chủ tịch phụ trách tiếp thị của When I Work (công ty phát triển các ứng dụng quản lý thời gian sử dụng trên điện thoại thông minh) cho rằng, những người có nhiều triển vọng thăng tiến trong nghề nghiệp thường có chung những đặc điểm sau.

Sẵn sàng đón nhận thách thức

Có khá nhiều nhân viên khi đối diện trước các dự án mất nhiều thời gian hoặc các nhiệm vụ kéo dài thường tìm cách thoái thác trách nhiệm hoặc “giao phó” chúng cho những người khác.

Những nhân viên có triển vọng thăng tiến cao thường không né tránh khó khăn, thử thách. Họ xem những thời điểm như thế, từ việc tham gia vào một dự án mới, làm việc với một vị sếp mới cho đến việc chuyển văn phòng đến một địa điểm mới… đều là các cơ hội để học hỏi và phát triển.

Xem thất bại là cơ hội

Những người có trình độ chuyên môn càng cao thường càng khó chấp nhận thất bại. Khi gặp thất bại, họ cảm thấy mình có lỗi với bản thân và đồng nghiệp.

Tuy nhiên, những người có triển vọng thăng tiến cao lại xem thất bại là những cơ hội. Thay vì đổ lỗi cho bản thân hoặc người khác, họ tìm cách học hỏi từ chính những trải nghiệm của mình và tập trung vào việc hướng đến những kết quả tốt đẹp hơn trong tương lai.

Tự tin

Những nhân viên thăng tiến nhanh trong nghề nghiệp luôn tự tin vào bản thân, công việc và kế hoạch nghề nghiệp của họ. Sự tự tin ấy giúp họ có được niềm tin từ người khác và được người khác xem như những nhà lãnh đạo tương lai.

Patel cho rằng ngay cả những người vốn rụt rè, nhút nhát vẫn có thể học cách thay đổi bản thân để trở thành một người tự tin bằng cách thay đổi hình ảnh, cách giao tiếp của mình.

Lạc quan

Không ai thích làm việc với những đồng nghiệp thường xuyên than phiền và nhìn mọi việc với con mắt tiêu cực. Những người thăng tiến nhanh là những người rất lạc quan, luôn nhìn thấy giải pháp chứ không phải các vấn đề. Thay vì thừa nhận khó khăn, họ tìm cách khắc phục khó khăn.

Patel khuyên nhân viên nên thực hành để trở thành một người lạc quan bằng cách viết ra 3 - 5 điểm mà mình cảm thấy biết ơn mỗi ngày. Học suy nghĩ một cách lạc quan và tích cực sẽ giúp nhân viên có được những thành tích tốt trong công việc.

Sẵn sàng lắng nghe phản hồi

Những nhân viên đạt được tiến bộ nhanh trong nghề nghiệp thường sẵn sàng lắng nghe phản hồi, góp ý của cấp trên và đồng nghiệp. Từ đó, họ rút ra các bài học và thực hiện các thay đổi để cải thiện công việc.

Patel khuyên nhân viên không nên xem phản hồi của mọi người xung quanh là những lời chỉ trích mà là những đóng góp có tính xây dựng. Khi nhận được phản hồi của người khác, nên đáp lại bằng những câu như: “Tôi rất cảm ơn góp ý của anh và muốn dành một ít thời gian để xem xét vấn đề này cùng với anh. Chúng ta có thể trao đổi với nhau trong một giờ không?”.

Tìm người hướng dẫn

Những nhân viên có triển vọng thăng tiến nhanh thường tìm những người mà họ có thể học hỏi từ đó. Họ luôn muốn làm việc cùng với những nhà quản lý hay lãnh đạo sẵn sàng ủng hộ họ và chỉ ra cho họ các cơ hội tiềm năng hay giao phó cho họ nhiệm vụ mới.

Patel khuyên nhân viên nên thể hiện sự tôn trọng với một số nhà quản lý cấp cao, thể hiện mong muốn được học hỏi và giúp đỡ họ trong công việc.

Linh hoạt

Những người có triển vọng thăng tiến nhanh thường rất linh hoạt trong thời gian làm việc. Họ sẵn sàng làm nhiều thời gian hơn bình thường để hoàn thành một dự án hoặc để theo đuổi các cơ hội mới. Họ cũng rất dễ dàng thích nghi với các thay đổi trong công việc.

Tập trung vào kết quả

Trong công việc, những người thăng tiến nhanh trong nghề nghiệp không đặt nặng vấn đề một nhiệm vụ nào đó là công việc của ai mà nhiệm vụ ấy có được hoàn thành hay không.

Họ chú trọng vào các kết quả thay vì mất thời gian cho việc đổ lỗi lẫn nhau hay đùn đẩy trách nhiệm. Họ cũng sẵn sàng tham gia vào mọi việc để công việc được hoàn tất.

Thể hiện tinh thần cầu tiến

Đôi khi, sự khác biệt giữa một nhân viên được thăng chức và một nhân viên không được thăng chức nằm ở chỗ nhân viên được thăng chức biết cách thể hiện mong muốn được phát triển nghề nghiệp, tinh thần sẵn sàng gánh vác thêm trách nhiệm, đón nhận thêm thách thức và chứng minh với cấp trên rằng họ hoàn toàn có đủ năng lực để đảm nhận chức vụ cao hơn.

Kỹ năng thương lượng tốt

Làm hài lòng tất cả mọi người là một việc rất khó. Những người có khả năng thăng tiến nhanh trong nghề nghiệp thường là những nhân viên biết cách giúp đỡ những người khác và làm cho họ cảm thấy tự hào về những điểm mạnh của mình cũng như vui mừng với những kết quả chung mà nhóm đạt được.
Theo Inc/DNSGCT
Share:

Thứ Sáu, 12 tháng 6, 2015

10 bí mật chỉ người thành công mới biết

Geoffrey James - cây bút quen thuộc của tạp chí Inc., tác giả quyển Business Without the Bullsh*t: 49 Secrets and Shortcuts You Need to Know (tạm dịch: 49 bí quyết điều hành doanh nghiệp một cách đơn giản và thông minh) – đã tiết lộ nhiều bí mật cần biết để có thể tồn tại, phát triển và thành công trong lĩnh vực kinh doanh.

1. Để trở nên lạc quan hơn

- Mỗi ngày đều chờ đợi một điều tuyệt vời sẽ xảy ra.
- Đối xử với người khác theo cách mà bạn muốn mình được đối xử.
- Không phí công sức vô ích cho những điều mà bạn không thể thay đổi.
- Tập trung tối đa vào công việc hiện tại chứ đừng để bị phân tâm quá nhiều bởi kết quả được trông đợi.
- Nghĩ về người khác theo hướng họ có ý tốt.
- Tránh gây cảm xúc tiêu cực cho người khác.
- Thưởng thức một món ăn ngon mỗi ngày.
- Không xem tivi liên tục.
- Cố gắng để thường xuyên nhận được sự bày tỏ lòng biết ơn từ mọi người.
- Nhớ rằng điều tuyệt vời nhất vẫn chưa xảy đến.

2. Để loại bỏ stress

- Luyện tập tính kiên nhẫn khi nhận được kết quả không như mong đợi.
- Nếu cảm thấy đang bị quá tải, hãy suy xét đến việc bàn bạc với người quản lý về một mức độ công việc vừa sức hơn.
- Dành thời gian cho những việc khiến bạn thoải mái và vui vẻ (trung bình khoảng 40 giờ/tuần).
- Tránh xa những người không thể hoặc không muốn kiểm soát sự căng thẳng của họ.
- Tìm một nơi có thể làm việc trong sự yên tĩnh, không bị phiền nhiễu.
- Tránh xa những kênh thông tin thường gây cho bạn cảm giác tiêu cực.
- Hủy bỏ những dự án mà bạn chắc chắn rằng mình không thể làm tốt.
- Đừng mất thời gian tranh cãi với người lạ trên internet.
- Thực hiện lần lượt từng công việc luôn tốt hơn ôm đồm cùng lúc quá nhiều việc.

3. Để vượt qua nỗi sợ hãi

- Làm giảm sự tác động của nỗi sợ hãi bằng cách… đương đầu với nó.
- Tưởng tượng rằng bạn phải “thương lượng” với nỗi sợ hãi để nó trở nên dễ dàng hơn.
- Nhớ rằng sợ hãi chỉ là một sự phấn khích đã được ngụy trang khéo léo.
- Biến nỗi sợ thành “cỗ máy” sản sinh năng lượng để bạn làm việc tốt hơn.

4. Để đối phó với sự từ chối

- Sự từ chối chỉ là biểu hiện của sự khác biệt về quan điểm.
- Sự từ chối chỉ gây ra “đau đớn” khi bạn cho phép nó gây tổn thương mình.
- Nên nhớ rằng mọi sự từ chối đều thúc đẩy bạn tiến đến gần mục tiêu hơn.
- Chuẩn bị sẵn một kế hoạch khác để nhanh chóng “chuyển hướng” khi bị từ chối.

5. Để chế ngự sự thất bại

- Tạo ra những mục tiêu có khả năng tạo động lực cho bản thân.
- Luôn viết những mục tiêu đó ra và đặt ở chỗ nào bạn có thể dễ dàng nhìn thấy nhất.
- Nói “Tôi phải…”, “Tôi sẽ…” thay vì “Tôi sẽ cố gắng…”.
- “Chẻ nhỏ” mục tiêu ra thành những kết quả cụ thể hơn để bạn có thể đạt được từng bước.
- Luôn kiểm tra lại dù bạn nghĩ rằng mình đang đi đúng hướng hay chệch hướng mục tiêu.
- Vui vẻ chào đón sự thất bại bởi nó sẽ giúp củng cố cho kế hoạch của bạn.
- Thất bại thật sự là khi bạn không hành động.

Quyển Business Without the Bullsh*t: 49 Secrets and Shortcuts You Need to Know của Geoffrey James 

6. Để đạt được ước mơ nghề nghiệp

- Biết được những yếu tố tạo nên công việc mơ ước của mình.
- Tìm những hình mẫu lý tưởng cho bản thân và tham khảo cách suy nghĩ của họ.
- Có can đảm hy sinh sự an toàn hiện tại vì ước mơ sự nghiệp.
- Học cách bán ý tưởng của mình.
- Tạo ra một kế hoạch và bắt đầu thực hiện ngay từ hôm nay.
- Linh hoạt điều chỉnh mục tiêu cho phù hợp với sự phát triển của bản thân.

7. Để có được thu nhập ổn định

- Không quyết định thay đổi công việc trừ khi bạn đã tích lũy được ít nhất là 6 tháng thu nhập.
- Liên tục trau dồi chuyên môn để giảm thiểu khả năng bị sa thải.
- Suy xét kỹ lưỡng các cơ hội mới trước khi quyết định chuyển việc.

8. Để nâng cao hiệu suất làm việc mỗi ngày

 - Không nhận cuộc gọi từ người lạ, trừ khi bạn là điện thoại viên hoặc làm việc trong lĩnh vực chăm sóc khách hàng.
- Sử dụng thư điện tử (email) thay vì thư thoại (voice mail).
- Giới hạn thời gian chat với đồng nghiệp.
- Tắt những âm thanh báo (trên máy tính hoặc điện thoại) có thể làm gián đoạn suy nghĩ của bạn.
- Tự theo dõi cách bạn “tiêu xài” thời gian mỗi ngày.
- Nhớ rằng 20% hành động của bạn giúp sản sinh ra 80% kết quả.
- Chỉ thực hiện những hành động tạo ra 80% kết quả đó.
- Ưu tiên cho những phần việc được hoàn thành tốt nhất nhưng tốn ít công sức nhất.

9. Để có được một cuộc phỏng vấn thành công

- Luôn có kế hoạch dự phòng, không xem một cuộc phỏng vấn là lựa chọn duy nhất.
- Tìm hiểu tất cả những điều cần biết về công ty mình sắp ứng tuyển.
- Nghĩ ra và luyện tập cách trả lời cho những câu hỏi cơ bản.
- Mặc bộ trang phục mà bạn nghĩ rằng mình sẽ phải mặc khi làm việc ở công ty đó.
- Tiếp nhận tất cả thông tin trong buổi phỏng vấn, sau đó mới cân nhắc việc quyết định có làm hay không.

10. Sử dụng hiệu quả trang mạng dịch vụ xã hội

- Sử dụng một bức ảnh chân dung thể hiện sự chuyên nghiệp.
- Thường xuyên cập nhật sơ yếu lý lịch cho phù hợp với mục tiêu nghề nghiệp.
- Cố gắng có được sự tiến cử (recommendation) từ nhiều cá nhân có uy tín.
- Hạn chế sử dụng các trang nhật ký điện tử (blog), trừ khi bạn được trả tiền để làm điều đó.
- Đừng phát biểu những quan điểm cá nhân bị xem là không phù hợp lên internet.

BÍCH TRÂM (theo Inc.)/Doanh Nhân Sài Gòn
>> 7 tố chất cần có của một doanh nhân thành đạt
Share:

Thứ Sáu, 5 tháng 12, 2014

5 ý nghĩ mài mòn thành công của doanh nhân

Các doanh nhân thành công thường là những người luôn kết hợp hoàn hảo kỹ năng phân tích và lập luận với tinh thần lạc quan, sáng tạo, và kỹ năng giải quyết vấn đề, ứng xử đời thường.

Tuy nhiên không phải họ không gặp những hạn chế trong tư duy như người khác. Điểm khác biệt chỉ là họ biết cách gạt bỏ khi chúng xuất hiện.
Share:

Thứ Năm, 5 tháng 6, 2014

Các doanh nhân thành công có đặc điểm tính cách gì?

Doanh nhân thành công luôn là những tấm gương để mọi người học hỏi với hy vọng sẽ trở thành con người thành đạt trong tương lai. Hãy xem những con người thành công thường có đức tính gì. 

Share:

Trang

Nổi bật

Giới siêu giàu kiếm tiền từ đâu?