Kiến thức chứng khoán - Kinh nghiệm đầu tư chứng khoán

Hiển thị các bài đăng có nhãn người do thái. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn người do thái. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 3 tháng 3, 2017

Trong khi trẻ em Do Thái 5 tuổi đã phải 'làm thêm' kiếm tiền thì thanh niên Việt 20 tuổi vẫn được dạy: 'Không được thế, nhiệm vụ của con là phải học'

Từ khi sinh ra, trẻ em Do Thái đã được dạy rằng: Muốn có tiền tiêu vặt, cần phải lao động.

http://www.blogchungkhoan.com/search/label/Do%20th%C3%A1i?&max-results=7?&max-results=7
“Nhiệm vụ của con là phải học” là câu cửa miệng của nhiều phụ huynh Việt Nam khi nhắc nhở con cái của mình từ khi học lớp 1 cho đến hết Đại học, thậm chí là đang học lấy bằng Thạc sĩ.

Bố mẹ Việt Nam quan niệm rằng, con cái chỉ nên tập trung vào việc học sao cho thật giỏi, lấy được tấm bằng đẹp sẽ dễ dàng xin việc. Còn nhiệm vụ KIẾM TIỀN là chuyện của bố mẹ.

Thế nhưng, trái ngược ở Việt Nam, phụ huynh Do Thái luôn dạy con kiếm tiền và biết giá trị của đồng tiền ngay từ khi mới sinh ra.

Trẻ em Do Thái từ 1-3 tuổi sẽ phải học nhận biết được tiền xu và tiền giấy. Khi 3-4 tuổi, trẻ phải biết dùng tiền xu mua những món hàng đơn giản, hoặc dùng tiền trao đổi hàng hóa, hiểu được giá trị của đồng tiền. Và khi lên 5 tuổi, trẻ em đã bắt đầu “làm thêm” để kiếm tiền.

Ở Isarel, các bậc phụ huynh cho rằng, 5 tuổi là giai đoạn thích hợp nhất để con "làm thêm” kiếm tiền. Cha mẹ Do Thái đặc biệt chú ý đến khả năng lao động của trẻ.

Thông thường, đến 5 tuổi, cha mẹ sẽ giao một số việc nhà cho trẻ làm và thưởng tiền. Chẳng hạn, lau nhà là 15 xu, quét dọn phòng 20 xu, đổ rác 5 xu… Khi trẻ lớn dần lên, cha mẹ sẽ giao cho trẻ một số công việc khó khăn hơn, đương nhiên tiền thưởng cũng sẽ cao hơn.

Tuy vậy, không phải tất cả việc nhà đều được nhận tiền thưởng. 

Người Do Thái rất thông minh, không phải bất cứ công việc nhà nào mà trẻ làm đều được thưởng tiền. Vì có một số việc nhà thuộc trách nhiệm của trẻ, ví dụ như tự giặt những bộ quần áo nhỏ, thu dọn và sắp xếp sách vở gọn gàng… Những công việc này đều không có tiền thưởng, chỉ có một số cha mẹ thống nhất với trẻ rằng, làm xong việc nhà và làm tốt mới được nhận tiền thưởng.

Ngoài ra, một số công việc nhà làm hay không làm hoàn toàn do trẻ quyết định, trẻ làm cũng không có tiền mà không làm cũng không sao. Cách phân loại công việc hợp lý như vậy sẽ nâng cao tinh thần nhiệt tình làm việc của trẻ.

Khi trẻ được hơn 10 tuổi, cha mẹ Do Thái thường liệt kê một bảng công việc hàng ngày cho trẻ, sau mỗi công việc sẽ ghi số tiền tương ứng. Trẻ hoàn thành công việc xong sẽ nhận được số tiền đó.

Lúc đầu, cha mẹ không nên để cho trẻ làm quá nhiều việc gây cảm giác mệt mỏi, từ đó khó hoàn thành kế hoạch.

Thông thường, cha mẹ sẽ sắp xếp công việc cho trẻ theo chiều hướng tăng dần về số lượng cũng như độ khó, mục đích là nhằm giúp trẻ yêu lao động, hiểu được giá trị của lao động.

Tất cả số tiền thưởng mà con kiếm được (dù ít hay nhiều) cũng sẽ được gửi vào tài khoản ngân hàng riêng của con. Và số tiền đó được dùng trong mục đích tùy con quyết định song bố mẹ luôn khuyến khích chúng tiêu dùng có ích, một phần để mua sách vở, làm từ thiện… và số còn lại để đầu tư sinh lời.

Bên cạnh việc kiếm tiền, người Do Thái cho rằng, khi làm việc nhà, trẻ còn học được các kỹ năng sống tự lập, từ đó thích nghi với cuộc sống hơn. Trong trường hợp bố mẹ có việc bận không ở nhà, trẻ sẽ tự biết xoay sở tốt mà hoàn toàn không cảm thấy khó khăn.

Trẻ em Do Thái 16-17 tuổi hầu hết đã nắm được một số kiến thức kinh tế, như kiến thức cơ sở của kinh tế vĩ mô, học cách quan tâm chú ý đến kinh tế thị trường toàn cầu, bắt đầu hiểu một số mối quan hệ giữa các công cụ tiền tệ.

Những bậc cha mẹ Việt sẽ kinh ngạc vì với trẻ vị thành niên hoàn thành những nhiệm vụ trên là thử thách không hề dễ dàng. Nhưng với trẻ em Do Thái, nhiệm vụ đó dễ như trở bàn tay, vì các em từ nhỏ đã được giáo dục về tài chính, và được giáo dục rằng: Nếu muốn có tiền tiêu cần phải lao động.

>> 10 định luật làm giàu của người Do Thái, 3.000 năm vẫn còn có giá trị

Hồng Minh
Theo Trí Thức Trẻ
Share:

Thứ Năm, 9 tháng 2, 2017

10 định luật làm giàu của người Do Thái, 3.000 năm vẫn còn có giá trị

Người Do Thái cho rằng: Bánh sẽ không tự nhiên rơi từ trên trời xuống. Bởi vậy, những điều tốt đẹp đều có nguyên do ở phía sau, nếu không có cơ hội sẽ không vô duyên vô cớ rơi vào tay bạn.



Dưới đây là 10 định luật làm giàu được các học giả Do Thái tổng kết lại từ nhiều năm trước :

1. Tư duy của Edison: Thất bại là mẹ thành công


Edison xem mỗi lần thử nghiệm thất bại là một lần thu hoạch, bởi ít nhất chúng đã chứng minh rằng nguyên liệu thử nghiệm hoặc phương pháp đó là bất khả thi.


Do đó, sợi đốt của bóng đèn đã phải trải qua hơn 6.000 cuộc thử nghiệm mới có thể thành công.

 (Ảnh minh họa: nguồn internet)


Những người Do Thái khởi nghiệp luôn thể hiện một ý chí kiên cường, cho dù gặp phải bao nhiêu lần thất bại, họ đều cho rằng những cái đó đều là trải nghiệm cần có để tiến đến thành công.

2. Hiệu ứng Matthew: Nhất định phải trở thành người dẫn đầu


Nếu muốn giữ được ưu thế trong một lĩnh vực nào đó, thì cần phải cấp tốc trở thành người đi đầu trong lĩnh vực ấy. Khi bạn trở thành người dẫn đầu, cho dù tỷ suất hoàn vốn là giống nhau, bạn cũng có thể dễ dàng thu được lợi ích lớn hơn so với những người cùng ngành nhưng yếu hơn.

 (Ảnh minh họa: nguồn internet)


Trong kỹ năng sáng nghiệp kinh doanh, một khi người Do Thái giành được ưu thế trong lĩnh vực nào đó, họ sẽ cấp tốc đột phá mạnh mẽ hơn; khi xuất hiện đối thủ lớn mạnh, họ sẽ đi theo một cách khác, tìm ra chính xác điểm yếu của đối thủ và ưu thế của bản thân.

3. Định luật dao cạo Occam: Hãy đơn giản hết mức!


Định luật dao cạo Occam cho chúng ta biết rằng: Vạn sự vạn vật nên “đơn giản hết mức” chứ không phải là đơn giản hơn.
 (Ảnh minh họa: nguồn internet)


Người Do Thái thích duy trì tính đơn giản của sự việc, nắm bắt căn bản, giải quyết thực chất, không thích làm phức tạp hóa sự việc, có như vậy mới có thể giải quyết xong sự việc một cách nhanh chóng và có hiệu suất hơn.

4. Định luật đồng hồ: Một người không thể có hai người chỉ huy


Chỉ cần có một chiếc đồng hồ bạn có thể biết được bây giờ là mấy giờ. Nhưng khi sử dụng hai chiếc đồng hồ cùng một lúc, bạn lại không thể nào xác định giờ. Hai chiếc đồng hồ không thể nói cho một người biết thời gian chính xác hơn.

 (Ảnh minh họa: nguồn internet)


Trong phương pháp sáng nghiệp kinh doanh, người Do Thái cho rằng không thể cùng lúc ứng dụng hai loại quản lý khác nhau, cũng không thể cùng lúc thiết lập hai mục tiêu khác nhau.

Một người không thể để cho hai người chỉ huy cùng một lúc, mỗi người cũng không thể cùng lúc lựa chọn hai loại quan niệm giá trị khác nhau.

5. Định luật thùng gỗ: Thùng có thể đựng bao nhiêu nước là quyết định ở tấm gỗ ngắn nhất


Mỗi doanh nghiệp đều có khâu yếu kém của mình. Chính những khâu này làm doanh nghiệp có rất nhiều nguồn nhân lực nhàn rỗi thậm chí là lãng phí, không phát huy được tác dụng đáng có.
 (Ảnh minh họa: nguồn internet)


Người Do Thái cho rằng mỗi một đồng vốn đều phải xoay quanh một trọng tâm, mỗi một bộ phận đều phải xoay quanh mục tiêu trọng tâm mà cố gắng. Xoay quanh một vòng tròn trọng tâm, hình thành một vòng tròn thích hợp với mình nhất.

6. Định luật rượu và nước bẩn: Kịp thời dẹp sạch phần tử tiêu cực


Một muỗng rượu đổ vào một thùng nước bẩn, bạn sẽ có được một thùng nước bẩn; Đổ một muỗng nước bẩn vào trong một thùng rượu, cái bạn nhận được vẫn là một thùng nước bẩn!

Người Do Thái không nhân nhượng đối với tổ viên hoặc những thứ phá hoại tổ chức, họ cho rằng cần phải kịp thời xử lý ngay cả trước khi những phần tử tiêu cực này bắt đầu phá hoại.

7. Hiệu ứng ruồi ngựa: Con ngựa lười biếng ra sao, chỉ cần có ruồi ngựa cắn chích cũng sẽ hăng hái tinh thần


Ngựa bị ruồi chích rồi mới có thể chạy nhanh hơn, bất kể nó là con ngựa lười biếng ra sao. Con người chúng ta cũng như vậy.




Trong phương pháp sáng nghiệp kinh doanh, người Do Thái cho rằng: chỉ khi bị ai đó đuổi theo, người ta mới không dám buông lỏng, mới biết cố gắng phấn đấu. Từ góc độ này cho thấy, chúng ta nên cám ơn đối thủ cạnh tranh của mình, bởi họ chính là chuông báo tốt nhất cho ta hoàn thiện.

8. Tư duy cá bống: Không theo trào lưu, học cách suy nghĩ độc lập


Cá bống lấy con cá khỏe mạnh làm thủ lĩnh tự nhiên, cho dù hành động của con cá bống thủ lĩnh này xảy ra hỗn loạn, những con cá bống khác vẫn mù quáng chạy theo như trước.

Ngay từ nhỏ, người Do Thái đã phải học cách suy nghĩ độc lập, không mù quáng chạy theo trào lưu.

9. Tư duy Florence: Mục tiêu giống như hải đăng, đủ sáng mới có thể chỉ dẫn tàu thuyền


Mục tiêu cần phải “nhìn thấy được”, đời người không nhìn thấy được mục tiêu sẽ mất đi phương hướng tiến về trước, cho dù bạn có tràn trề tinh lực đi nữa cũng là làm việc vô ích.




Người Do Thái luôn nhấn mạnh ý nghĩa của việc định vị chính xác, mục tiêu rõ ràng, tất cả xoay quanh thực hiện mục tiêu mà tiến hành.

10. Tư duy tương quan: Không có bất cứ sự vật nào có thể tồn tại độc lập


Giữa các sự vật có sự tương tác, chúng sẽ không tồn tại độc lập.

Trong phương pháp sáng nghiệp kinh doanh, người Do Thái cho rằng sẽ không có bánh rơi từ trên trời xuống, bất cứ sự vật gì dẫu nhìn thấy là tốt đẹp thì đều có nguyên nhân của nó, không có cơ hội vô duyên vô cớ để lại cho bạn.

>> Bà mẹ Do thái nhỏ mật lên sách cho bé liếm để nó luôn nhớ sách rất ngọt ngào
 Châu Yến biên dịch
Đại Kỷ Nguyên
Share:

Thứ Hai, 19 tháng 9, 2016

Bà mẹ Do thái nhỏ mật lên sách cho bé liếm để nó luôn nhớ sách rất ngọt ngào

Từ ngàn xưa, người Do Thái đã xem tri thức là loại vốn đặc biệt vì có thể sinh ra vốn và của cải, lại không bị cướp đoạt được.

Trong lịch sử, người Do Thái được biết đến là một sắc tộc tôn giáo có nguồn gốc từ Israel. Dù hiện nay người Do Thái sống rải rác tại nhiều quốc gia khác nhau, nhưng chỉ có Israel là quốc gia Do Thái duy nhất trên thế giới, người dân đa phần là người Do Thái và quốc đạo là Đạo Do Thái.

Dân số người gốc Do Thái trên thế giới hiện nay vào khoảng gần 13,8 triệu người (khoảng hơn 0,19% dân số thế giới – số liệu năm 2013), tức là cứ khoảng 517 người thì có 1 người Do Thái.

Thế nhưng, vào khoảng giữa thế kỷ 19, 1/4 các nhà khoa học trên thế giới là người Do Thái, và tính đến năm 1978, hơn một nửa giải Nobel rơi vào tay người Do Thái. Như vậy, có đến 50% đóng góp cho sự tiến bộ của loài người chỉ do 0,19% dân số đảm nhiệm. Những tên tuổi lớn của thế kỷ 20 có thể kể đến như bộ óc thế kỷ Albert Einstein, Sigmund Freud, Otto Frisch… đều là người Do Thái.

Vậy tại sao các thế hệ người Do Thái lại có được trí tuệ như vậy (chỉ số IQ trung bình của người Do Thái là 110 so với chỉ số trung bình 100 của thế giới)? Trong cuốn “Bí mật người Do Thái dạy con làm giàu” có đưa ra lời giải thích cụ thể cho vấn đề này.

Vai trò của bà mẹ Do Thái 

Bà mẹ Do Thái dạy con từ khi mang thai. Các bà mẹ thường nghe nhạc, chơi đàn, hát và… làm toán cho đến khi sinh con ra. Các thai phụ làm vậy vì tin rằng cách đó sẽ làm đứa bé sau này trở nên thông minh. Người mẹ chọn ăn hạnh nhân, chà là, uống dầu cá và ăn cá nhưng tránh ăn đầu cá vì tin rằng tất cả điều đó sẽ giúp cho con trở nên thông thái.

Từ lúc còn ẵm ngửa đứa bé, bà mẹ đã tạo cho con thói quen thích sách bằng cách dùng mẹo nhỏ vài giọt mật lên cuốn sách và cho bé liếm. Khi đó, trong nhận thức non nớt của đứa trẻ, sách là cái gì đó rất ngọt ngào, hấp dẫn.

Ủy ban công nghiệp thành phố New York (Mỹ) có cuộc điều tra nguồn nhân lực vào năm 1950 và nhận thấy có sự khác biệt lớn về việc đi làm công nhân giữa phụ nữ Ý với phụ nữ Do Thái. Phụ nữ Ý thường phải đi làm và còn bắt con nghỉ học để đi làm phụ cha mẹ, các bà mẹ Do Thái thì ngược lại. Dù kinh tế khó khăn, họ vẫn ở nhà để nuôi dạy con, dồn hết trách nhiệm kiếm sống cho chồng - người ban ngày đi làm nhưng tối về có nghĩa vụ học và dạy cho con học.

Nhờ sự chăm sóc, động viên của cha mẹ mà học sinh Do Thái nổi tiếng trong trường về thành tích học tập và tính chuyên cần, khác hẳn với học sinh nhiều dân tộc khác. Vào năm 1954, hệ thống trường công của thành phố New York thống kê được 28 học sinh có chỉ số IQ cực cao lên tới 170 điểm, thì trong đó 24 là học sinh Do Thái.

Ngoài ra, những người này còn quan niệm điểm không quan trọng bằng cách học, mà đã học thì phải hỏi. Chính vì vậy, học sinh Do Thái được khuyến khích đặt thật nhiều câu hỏi cho giáo viên.

Cũng theo các nhà khoa học Do Thái, sự rung động của âm nhạc sẽ kích thích bộ não và đó là lý do vì sao có rất nhiều thiên tài người Do Thái…

Hệ thống giáo dục phổ thông 

Từ lớp 1 đến lớp 6, những môn học ưu tiên trẻ em gồm kinh doanh, toán học, khoa học. Tất cả trẻ Do Thái đều tham gia vào các môn thể thao như bắn cung, bắn súng, chạy bộ vì họ tin rằng bắn cung và bắn súng sẽ rèn luyện cho bộ não trở nên tập trung vào cách quyết định và sự chính xác.

Ở trường trung học, học sinh sẽ giảm dần việc học khoa học mà sẽ học cách tạo ra sản phẩm, đi sâu vào những kiểu bài tập thực tế như vậy. Dù một số dự án/bài tập có vẻ nực cười và vô dụng, nhưng tất cả đều đòi hỏi sự tập trung nghiêm túc đặc biệt nếu đó là những môn thuộc về vũ khí, y học, kỹ sư, ý tưởng sẽ được giới thiệu lên các viện khoa học hoặc trường đại học.

Khoa kinh doanh cũng được chú trọng ưu tiên. Trong năm cuối ở trường đại học, sinh viên sẽ được giao một dự án và thực hành. Họ sẽ hoàn thành nếu nhóm của họ (khoảng 10 người/nhóm) có thể tạo ra lợi nhuận 1 triệu USD. Đừng ngạc nhiên, đây là thực tế và đó là lý do vì sao một nửa hoạt động kinh doanh trên thế giới là của người Do Thái.

Xã hội Do Thái từ rất sớm đã coi trọng việc xóa mù chữ, sách và người có học thức

Dân tộc Do Thái là dân tộc đầu tiên trên thế giới - từ năm 64 đầu Công nguyên - mà nhà thờ quy định tất cả nam giới phải biết đọc viết và tính toán; sang thế kỷ thứ 2 thì bắt buộc mọi đàn ông phải có nghĩa vụ dạy con trai mình đọc, viết, tính toán. Như vậy họ đã thực hiện phổ cập giáo dục cho nam giới trước các dân tộc khác mười mấy thế kỷ.

Israel cũng là nước đứng đầu thế giới về dân số từ 14 tuổi đọc sách, đứng đầu về số đầu sách xuất bản theo đầu dân. Không một người Do Thái thành đạt nào lại không tranh thủ thời gian để đọc, để học, để làm giàu hiểu biết.

Như vậy, từ ngàn xưa người Do Thái đã xem tri thức là loại vốn đặc biệt vì có thể sinh ra vốn và của cải, lại không bị cướp đoạt được. Và đây nhân tố quan trọng giúp người Do Thái đạt được trí thông minh vượt bậc so với phần còn lại của thế giới.

>> Trẻ em Do Thái từ nhỏ đã được biết hai việc: một là lao động hai là tiền bạc 


Phương Linh (Tổng hợp)
Theo Trí Thức Trẻ
Share:

Thứ Bảy, 17 tháng 9, 2016

Đến cả nghiên cứu khoa học cũng thừa nhận người Do Thái cực kỳ thông minh và điều đó không phải tự nhiên mà có

Người Do thái thông minh, đó là sự thật. Tuy nhiên, sự thông minh này không chỉ diễn ra trong 1 thế hệ mà được chứng minh di truyền qua nhiều đời.

Chúng ta hay nói rằng người Do Thái là dân tộc thông minh nhất thế giới. Tuy nhiên, đây không phải là nhận định vô căn cứ mà đã được chứng minh bằng khoa học.

Năm 2005, một nghiên cứu cho thấy những người Do Thái có kỹ năng giao tiếp và tính toán trội hơn hẳn so với những cộng đồng dân tộc khác.

Trong thế kỷ 20, mặc dù người Do Thái chỉ chiếm 2% dân số Mỹ nhưng lại có đến 27% nhà khoa học của nước này đoạt giải Nobel là người Do Thái. Không những thế, khoảng 25% nhà toán học đoạt giải Fields Medal (có giá trị tương tự Nobel trong toán học), 25% số người đoạt giải ACM Turing Award (mảng máy tính), 9/19 nhà vô địch cờ vua... là người Do Thái.

Chỉ số IQ trung bình của người Do Thái theo nhiều nghiên cứu là vào khoảng 110 so với mức 100 của toàn cầu. Dù chỉ chênh lệch 10 nhưng tỷ lệ sản sinh thiên tài giữa 2 cấp độ lên tới khoảng 120-150 lần.

Số liệu năm 2015 cho thấy người Do Thái chiếm chưa đến 0,2% tổng dân số toàn cầu với khoảng 14,3 triệu người. Tuy nhiên ngay từ thế kỷ 19, khoảng 1/4 số nhà khoa học trên thế giới đã là người Do Thái. Hàng loạt những cái tên như nổi tiếng Albert Einstein, Sigmund Freud, Otto Frisch... đều là người Do Thái.

Vậy tại sao người Do Thái lại thông minh, theo cách hiểu của các nhà khoa học?

Luận điểm 1: Chúa muốn người Do Thái thông minh?

Trước khi nói về người Do Thái, chúng ta cần nói về tôn giáo của họ bởi dân tộc này khá sùng đạo. Đây là một trong những yếu tố khiến người Do Thái không mất đi bản sắc cũng như bị hòa tan với các dân tộc, tín ngưỡng khác.

Đạo Do Thái ra đời cách đây khoảng 3.000 năm và là tín ngưỡng lâu đời thứ 2 trên thế giới sau đạo Hindu (4.000 năm). Tuy nhiên Hindu là đạo đa thần nên có thể nói đạo Do thái là tín ngưỡng độc thần lâu đời nhất thế giới. Theo đó, người Do Thái chỉ thờ một vị chúa trời duy nhất và chắc chắn không có vị thánh hay chúa nào là người cả.

Điều này khiến Thiên chúa giáo, vốn có ảnh hưởng sâu rộng tại Phương Tây và trên thế giới thù ghét người Do Thái bởi họ coi Đức chúa Jesus là con của chúa trời. Dẫu vậy, nhờ quan điểm này mà tín ngưỡng trong cộng đồng Do Thái không dễ dàng bị hiểu theo những nghĩa khác nhau, tạo nên những mâu thuẫn trong xã hội.

Trong cuốn kinh Torah ghi lại những điều răn của đức tiên tri Moses có ghi lại rằng người Do Thái là dân tộc được chúa trời chọn lựa (Chosen People) để truyền đạt ý chúa, khai sáng và dẫn dắt cho các dân tộc khác.

Theo nhiều chuyên gia khoa học, quan điểm tôn giáo này có lẽ đã ảnh hưởng sâu rộng đến xã hội Do Thái khi tạo động lực cho dân tộc này luôn phấn đấu, khai sáng bản thân để hoàn thành nhiệm vụ mà đức chúa giao cho.

Đặc biệt, quan điểm này cũng giải thích tại sao người Do Thái mê kiếm tiền bởi sự giàu có là hệ quả kèm theo của lao động sáng tạo và khai sáng.

Bên cạnh đó, đạo Do Thái cũng khá khác biệt so với nhiều tôn giáo khác khi không ghi lại quá nhiều những điều răn cứng nhắc hay những luật lệ cổ hủ buộc mọi người phải tuân theo. Thay vào đó, những cuốn kinh Torah của người Do Thái thường đặt ra các câu hỏi gợi mở sự suy nghĩ và sáng tạo cũng như có nhiều câu trả lời khác nhau tùy thuộc hoàn cảnh.

Trong những bữa cơm ngày lễ cuối tuần (Sabbath) hay khi sum họp gia đình, cảnh mọi người thảo luận về kinh Torah, tranh luận những lý lẽ gợi mở trong đó là điều bình thường và có lẽ đây là lý do khiến người Do Thái có suy nghĩ khá sâu sắc về cuộc sống.

Luận điểm 2: Cách đây 2.000 năm, đến 90% người Do Thái đã biết chữ

Một nguyên nhân nữa khiến người Do Thái thông minh hơn các dân tộc khác là do họ rất coi trọng chuyện học hành.

Kinh Tamud từ cách đây hơn 2.000 năm của người Do Thái đã yêu cầu các bậc phụ huynh phải dạy con biết đọc, biết viết từ năm lên 6 tuổi. Nói cách khác, việc giáo dục con cái từ nhỏ không còn là vấn đề đạo đức, trách nhiệm của nhà nước hay đơn giản là lo lắng cho tương lai con trẻ. Người Do Thái đã nâng tầm giáo dục thành một loại giáo điều trong tín ngưỡng.

Rõ ràng, chẳng có ông bố bà mẹ Do Thái nào dám không giáo dục con từ năm lên 6 nếu không muốn bị cộng đồng xa lánh hoặc bị chí trích vì vi phạm giáo điều.

Kết quả là từ hơn 2.000 năm trước, có đến 90% số người Do Thái thoát khỏi nạn mù chữ. Nếu tỷ lệ trên không mấy ấn tượng với bạn thì xin nhắc lại rằng cách đây 2.000 năm, đa phần người Do Thái là nông dân, du mục, thậm chí lang thang nay đây mai đó.

Ấn tượng hơn nữa, nếu bạn biết rằng hầu hết người dân Châu Âu, Bắc Phi và Trung Đông thời đó là mũ chữ thì điều mà người Do Thái làm được quả là phi thường. Thời kỳ đó, biết chữ là điều khá xa xỉ và chỉ có tầng lớp tăng lữ, quý tộc mới có điều kiện được học. Những người dân thuộc tầng lớp dưới không có đủ thời gian cũng như mục đích để học chữ khi họ còn mải kiếm sống hoặc sống sót.

Với tỷ lệ biết chữ cao, người Do Thái đương nhiên tham gia nhiều vào ngành thương nghiệp cũng như được các thương nhân tin dùng khi biết tính toán.

Ngoài ra, cuốn kinh Do Thái bằng tiếng Hebrew cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng cho việc giáo dục cũng như hiểu biết của dân tộc này.
 
Do bị mất nước từ sớm và phải sống lang thang nhiều nơi trước khi Israel được thành lập, bất kỳ người Do Thái nào cũng phải biết chữ để có thể đọc kinh ở bất kỳ nơi đâu, trong mọi hoàn cảnh nào. Đây là điều dễ hiểu khi người Do Thái khá sùng đạo.

Bên cạnh đó, do phải sống lang thang nhiều nơi nên đương nhiên người Do Thái biết nói ít nhất 2 ngôn ngữ trở lên. Theo các nhà khoa học, thông thường những người biết nhiều thứ tiếng thường thông minh hơn so với người bình thường.

Việc người Do Thái mất nước từ sớm khi người Assyria chinh phục vương quốc Israel và khiến người dân Do Thái phải lưu vong vào năm 722 trước công nguyên đã khiến dân tộc này phải tự lực cánh sinh, vượt lên trên hoàn cảnh để sinh tồn. Có lẽ, sự thiếu may mắn khi mất nước đã khiến người Do Thái buộc phải trở nên thông minh hơn và những cá thể kém sẽ bị đào thải nhanh chóng.

Luận điểm 3: Duy trì nòi giống, bảo tồn và sàng lọc gen

Người Do thái thông minh, đó là sự thật. Tuy nhiên, sự thông minh này không chỉ diễn ra trong 1 thế hệ mà được chứng minh di truyền qua nhiều đời.

Một nghiên cứu năm 2009 cho thấy người Do Thái có tỷ lệ tương đối cao khi mắc các bệnh như rối loạn thần kinh Tay Sachs khiến cơ thể tử vong trước 5 tuổi, hay bệnh Canavan khiến trẻ mất trước 2 tuổi. 

Nghiên cứu này cho thấy việc người Do Thái thường xuyên kết hôn trong cộng đồng và hiếm khi lấy người ngoài đạo đã khiến các cặp gen xấu trong cộng đồng có khả năng kết hợp cao hơn, tạo nên tỷ lệ mắc bệnh nhiều hơn ở con cái.

Ngược lại, chính vì yếu tố này mà những gen trội hay thông minh của các đời trước lại có khả năng cao được di truyền qua đời sau, thậm chí còn được tăng cường hơn trước.

Nghiên cứu trên cho rằng những cặp gen di truyền đặc biệt được duy trì trong cộng đồng người Do Thái. Trong khi những cá thể yếu bị đào thải bởi bệnh tật và tử vong khi còn trẻ thì những cá thể thông minh, khỏe mạnh được sàng lọc và dần lớn mạnh cho đến ngày nay.

Ví dụ cha mẹ có gen tương ứng AA/aa và BB/bb, trong đó AA và BB là gen tích cực còn aa,bb là gen tiêu cực. Khi Aaaa kết hợp với BBbb, đời con sẽ cho ra 4 khả năng là AA/BB, AA/bb, aa/BB, aa/bb.

Khi đó cặp aa/bb sẽ biểu hiện kém và sớm bị đào thải trong cộng đồng do bệnh tật hay không thích nghi được với môi trường, trong khi cặp AA/BB sẽ có biểu hiện tích cực vượt trội so với đời trước. Hai cặp còn lại tiếp tục mang theo những gen trội của cha hoặc mẹ để truyền cho đời sau.

Nói cách khác, chính sự không pha loãng huyết thống trong cộng đồng Do Thái đã giữ gìn được những đặc tính gen hiếm có của dân tộc này.
 
Không dừng lại ở đó, việc duy trì nòi giống và những gen trội tích cực trong cộng đồng Do Thái đã được nâng tầm thành giáo điều. Thông thường, các dân tộc và quốc gia khác thường khuyến khích, khuyên răn các bạn trẻ lập gia đình phải xứng đôi vừa lứa, tâm đầu ý hợp... nhằm sàng lọc gen xấu và nhân giống gen tốt.

Tuy nhiên việc sàng lọc này thậm chí đã được đưa vào kinh Do Thái khi các giáo sĩ, người có uy tín trong cộng đồng xã hội cũng như dẫn dắt tâm linh cho mọi người được quy định phải là những người thông minh nhất, có kiến thức uyên bác.

Từ Giáo sĩ (Rabbi) trong tiếng Do Thái còn có nghĩa là “người giỏi giang” hay “người thầy”, qua đó chỉ ra vai trò quan trọng của các giáo sĩ này.

Việc các giáo sĩ là những người uyên bác không có gì đáng nói nếu so với nhiều tín ngưỡng khác, điểm đặc biệt ở đây là các giáo sĩ này được phép lấy vợ và thậm chí có rất nhiều con. Do có uy tín cao trong cộng đồng Do Thái nên các giáo sĩ này rất dễ lấy vợ, thậm chí còn được phép lựa chọn “mối” hôn nhân. Thông thường những giáo sĩ này sẽ chọn đối tượng cũng thuộc tầng lớp giáo sĩ, sau đó mới chuyển sang các gia đình thương nhân.

Bằng cách này, những gen ưu tú trong tầng lớp tinh hoa của người Do Thái được bảo tồn và liên tục di truyền.

Thậm chí trong kinh thanh Do Thái có nhiều đoạn còn khuyến khích các gia đình nếu có tiền hãy cho con gái lấy giáo sĩ hoặc học giả. Rõ ràng, tri thức và những gen thông minh được người Do Thái hết sức coi trọng.

Một yếu tố nữa khiến người Do Thái thúc đẩy được các gen tốt trong cộng đồng là quan điểm khuyến khích sinh sản đối với những gia đình có điều kiện, trong khi các cặp vợ chồng khó khăn thì lại được khuyên sinh đẻ có kế hoạch nhằm đảm bảo con cái sinh ra được nuôi dạy tốt nhất có thể. Bằng cách này, các gen xấu được sàng lọc trong khi những gen thông minh được khuyến khích nhân rộng.

Luận điểm 4: Thông minh vào bằng đường miệng

Nói về trí thông minh của người Do Thái thì không thể bỏ qua vấn đề ăn uống, bởi đây là yếu tố vô cùng quan trọng đóng góp cho sự phát triển của dân tộc này.

Người Do Thái hầu như chỉ ăn đồ Do Thái (Kosher) được làm theo cách riêng của họ. Ví dụ thịt động vật làm theo cách Do Thái phải lấy hết tiết một cách nhanh nhất, khiến con vật chết nhanh nhất mà không đau đớn. Thịt phải ngâm rửa cho hết sạch máu.

Nguyên nhân của việc này là người Do Thái coi rằng dòng máu thú vật chứa thú tính và con người có thể trở nên trì độn, thoái hóa giống nòi nếu ăn chúng.

Tuy vậy, các nhà khoa học lại có những cách giải thích hợp lý hơn cho các nghi lễ rườm rà trong đồ ăn của người Do Thái. Ví dụ việc không được uống sữa hay dùng thực phẩm từ sữa khi ăn mà phải dùng trước 30 phút hay sau ăn 6 tiếng. Nguyên nhân là sữa có nhiều đạm gây khó tiêu và khó hấp thụ cho cơ thể.

Việc không ăn chung thịt với cá là do chúng phản ứng lại lẫn nhau trong hệ tiêu hóa, không tốt cho sức khỏe. Trong khi đó, quy định không ăn thịt động vật đã bị dã thú cắn là để tránh nhiễm trùng cũng như đảm bảo vệ sinh.

Một cửa hàng McDonald's chế biến theo tiêu chuẩn Kosher của người Do Thái

Rõ ràng, với chế độ ăn thông minh, đảm bảo sức khỏe là một trong những yếu tố khiến người Do Thái có trí tuệ vượt trội so với nhiều dân tộc khác.

Ngoài ra, một số chuyên gia cho rằng những quy tắc rườm rà của đồ ăn Do Thái giúp dân tộc này luôn tự nhắc nhở về nguồn gốc, không ỷ lại và lười biếng, luôn biết ơn khi có đồ ăn.

Tuy nhiên, do đã từng phải lang thang nhiều nơi trên thế giới nên trong những trường hợp bất khả kháng, người Do Thái vẫn có thể ăn đồ thường. Đạo Do Thái cũng không bắt buộc các tín đồ chỉ được ăn đồ Kosher, không giống như các tín đồ Đạo Hồi chỉ ăn đồ Halal. Việc tuân theo quy định này hoàn toàn phụ thuộc vào ý thức và trách nhiệm của từng hộ gia đình.

Một điều thú vị là không chỉ người Do Thái, ngày nay ngày càng nhiều người nhận ra tác dụng tốt của đồ ăn Kosher. Dù đồ Do Thái thường đắt hơn 20-30% so với thức ăn thường nhưng ngày càng nhiều người Mỹ sử dụng loại đồ ăn này.

Người Do Thái chỉ chiếm chưa đến 2% dân số Mỹ nhưng đồ ăn đóng gói dán nhãn Kosher lại chiếm tới 41% thị trường. Tổng doanh số bán đồ Kosher tại Mỹ năm 2009 đạt 17 tỷ USD, tăng 70% so với 5 năm trước đó.

Khảo sát của hãng Mintel cũng cho thấy 62% người được hỏi nói rằng họ mua Kosher vì chất lượng thực phẩm tốt, trong khi 52% cho biết họ mua vì loại đồ ăn này tốt cho sức khỏe.
>> Nhờ trí tuệ của người đàn ông Do Thái này, Israel đã từ một hoang mạc khô cằn thành thiên đường nông nghiệp
Theo Hoàng Nam
Trí thức trẻ/CafeBiz

Share:

Thứ Sáu, 16 tháng 9, 2016

Chỉ cần ngồi nhà, người đàn ông này vẫn tiên đoán chính xác những gì đang diễn ra trên thế giới, ẵm luôn cả giải Nobel

Bằng ngòi bút và một bộ óc thông minh tuyệt đỉnh, Paul Krugman đã đưa ra những dự báo rất chính xác về kinh tế Mỹ cũng như kinh tế toàn cầu, đoạt giải Nobel mà chẳng cần phải đi đâu.

Chuyên gia kinh tế Paul Krugman sinh năm 1953 trong một gia đình người Mỹ gốc Do Thái. Ông đã từng làm giáo sư kinh tế tại trường đại học New York, MIT và Princeton. Năm 2008, ông đạt giải thưởng Nobel về kinh tế học cho những đóng góp về lý thuyết kinh thế như thuyết thương mại mới hay địa lý kinh tế mới.

Ông Krugman đã viết hơn 20 cuốn sách, hơn 200 bài viết học thuật và hơn 750 bài phân tích trên các tờ báo lớn tại Mỹ. Nội dung của các bài viết này trải dài từ phân phối thu nhập, thuế, kinh tế vĩ mô cho đến kinh tế quốc tế.

Chuyên gia kinh tế này còn là chuyên gia phân tích thường kỳ cho tờ New York Times, đồng thời thu hút được lượng lớn độc giả quan tâm, từ sinh viên, giáo sư cho đến các doanh nhân, nhà chính trị đối với các bài viết của mình.

Ảnh hưởng của ông Krugman đến nền kinh tế, hệ thống tài chính là khá lớn khi những lý thuyết và quan điểm của ông được nhiều người quan tâm, đặc biệt là trong giới học thuật. Năm 2016, RePec bình chọn ông là nhà kinh tế có tầm ảnh hưởng lớn thứ 24 trên thế giới nhờ những đóng góp to lớn của chuyên gia này đối với toàn cầu.

Đây là một điều khá đặc biệt khi nhiều chuyên gia kinh tế hoặc rất giỏi về phân tích số liệu, hoặc giỏi viết báo, hoặc có quan hệ khá rộng, trong khi Paul Krugman chỉ đơn thuần nghĩ đến những điều mà không ai nhận ra.

Nhà tiên tri nổi tiếng

Ngoài những bài viết học thuật gây tiếng vang, chính các dự báo chính xác của Krugman về kinh tế toàn cầu mới là điều khiến ông trở nên nổi tiếng và được quan tâm rộng rãi.

Vào thập niên 90, chính Paul Krugman là người đã dự báo chuẩn xác nền kinh tế Châu Á, đặc biệt là Nhật Bản đang lâm vào cái bẫy thanh khoản khi chính phủ liên tục bơm tiền vào hệ thống ngân hàng, sử dụng các chính sách nới lỏng tiền tệ để kích thích kinh tế nhưng hiệu quả lại không được như ý.

Nguyên nhân chính là tỷ lệ lạm phát thấp khiến Nhật Bản rơi vào nguy cơ giảm phát, người dân thay vì chi tiêu thêm lại tiết kiệm tiền để chờ giá xuống hoặc để đề phòng khủng hoảng kinh tế xảy ra. Các doanh nghiệp không đầu tư tích cực hơn dù đã được ngân hàng nới lỏng tín dụng.

Đúng như những gì ông Krugman dự đoán, Nhật Bản đã lâm vào tình trạng tăng trưởng chậm vào cuối thập niên 90 và để Trung Quốc vượt mặt sau đó.

Ngay từ cuối thập niên 90, Paul Krugman đã nhận định việc các ngân hàng hạ lãi suất cơ bản xuống mức quá thấp sẽ tạo nên nhiều rủi ro khi họ không còn nhiều công cụ tài chính nếu kinh tế không tăng trưởng như mong đợi và khủng hoảng xảy ra một lần nữa. Dự đoán này của Krugman lại chuẩn xác một lần nữa khi cả Châu Âu và Nhật Bản hiện đang có mức lãi suất rất thấp, thậm chí xuống mức âm nhưng nền kinh tế lại không bùng nổ như kỳ vọng.

Thậm chí ngay tại Mỹ, việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) có nên tăng lãi suất từ mức cực thấp 0,25-0,5% hay không hiện nay cũng đang gây ra vô vàn tranh luận bởi tăng trưởng của nước này vẫn chưa thực sự rõ ràng.

Cũng trong giai đoạn cuối thập niên 90, chuyên gia Krugman cho rằng những con rồng Châu Á, sự kỳ diệu của Trung Quốc, những con hổ Đông Á... đang tăng trưởng không bền vững. Năm 1994, chính Krugman đã chỉ ra rằng sự tăng trưởng của các nền kinh tế Châu Á phụ thuộc quá nhiều vào các dòng vốn tín dụng cũng như sự dồi dào trong lực lượng lao động. Trong khi đó, nền kinh tế và những yếu tố cơ bản của các nước này lại không được cải thiện mấy.
Theo Krugman, chỉ khi các nền kinh tế Châu Á này cải thiện được những yếu tố cơ bản về kinh tế, về năng suất thì tăng trưởng mới bền vững trong dài hạn.

Đúng như những dự đoán, kinh tế Trung Quốc đang giảm tốc còn nhiều nước Châu Á khác như Hàn Quốc, Mông Cổ, Ấn Độ, khu vực Đông Nam Á đang gặp khó khăn so các chính sách bất hợp lý trước đây.

Vào đầu thập niên 2000, Krugman cũng phản đối chính sách cắt giảm thuế của cựu Tổng thống George Bush khi cho rằng điều này chỉ làm suy giảm ngân sách chứ không thực sự thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng bền vững.

Trên thực tế, chính sách nới lỏng tiền tệ của chính quyền Bush đã gián tiếp thúc đẩy đầu tư và tạo nên cơn khủng hoảng năm 2008 khi bong bóng nhà đất tại Mỹ đổ vỡ. Trong khi nhiều chuyên gia có quan điểm tích cực với thị trường thời điểm năm 2008, chính Krugman là chuyên gia có những quan điểm bi quan về nền kinh tế.

Năm 2009, Krugman cho rằng các chính sách kích thích kinh tế mới của Tổng thống Barack Obama là quá nhẹ và không đủ để đưa nền kinh tế nước này trở lại thời kỳ đỉnh cao. Thêm vào đó, chính phủ đang tốn tiền để giải cứu những ông lớn trong ngành tài chính thay vì thực sự giải quyết những bất cập còn tồn tại trong ngành.

Một lần nữa, Krugman lại đúng khi nền kinh tế Mỹ dù đã có cải thiện nhưng chưa thể lấy lại hào quang trước khủng hoảng 2008. Thêm vào đó, ngành ngân hàng cũng ngày càng gặp khó khăn dù họ đã sống sót sau khủng hoảng. Hàng trăm nghìn nhân viên trong ngành đã bị sa thải do kết quả kinh doanh yếu kém của hệ thống ngân hàng.

Paul Krugman chụp ảnh cùng Tổng thống Geprge Bush
Paul Krugman chụp ảnh cùng Tổng thống Geprge Bush

Lý thuyết thương mại mới và địa lý kinh tế mới

Nếu những dự đoán chính xác của Paul Krugman khiến ông trở nên nổi tiếng và được nhiều người biết đến thì việc phát triển những lý thuyết kinh tế mới là yếu tố chủ chốt để chuyên gia này giành được giải thưởng Nobel kinh tế năm 2008.

Một trong những công trình mà ông Krugman xây dựng là lý thuyết thương mại mới, một học thuyết giúp giải thích sự bất hợp lý của lý thuyết thương mại cũ trước đó.

Trước năm 1970, lý thuyết thương mại quốc tế của chuyên gia kinh tế David Ricardo được sử dụng rộng rãi và nguyên lý chủ chốt của lý thuyết này là lợi thế so sánh. Theo đó, các quốc gia mua bán, trao đổi hàng hóa là do họ có lợi thế so sánh khác nhau.

Ví dụ, nước A có lợi thế sản xuất hàng nông sản nhưng không chuyên về các mặt hàng khai khoáng, nghĩa là nước A có lợi thế so sánh về nông sản. Trong khi nước B có lợi thế về khai khoáng nhưng có vị trí địa lý không thuận lợi cho nông nghiệp. Kết quả là nước A giao thương với nước B dựa trên lợi thế so sánh của từng nước để trao đổi cho nhau những hàng hóa mà đối phương có nhu cầu.

Đến những năm 1930, lý thuyết của Ricardo được hai chuyên gia Eli Heckscher và Bertil Ohlin mở rộng. Theo đó, những nước có lợi thế sản xuất hàng hóa dựa trên lực lượng lao động lớn nhưng thiếu vốn và kỹ thuật sẽ giao thương với quốc gia có lợi thế ngược lại.

Điều này giải thích tại sao những nước đang phát triển và có lực lượng lao động dồi dào như Trung Quốc, Việt Nam, Ấn Độ xuất khẩu các mặt hàng kỹ thuật kém như may mặc, giày dép... sang Mỹ còn phía Mỹ xuất khẩu các sản phẩm kỹ thuật cao như máy tính, máy bay, thiết bị điện tử... ngược trở lại.

Tuy nhiên, mô hình lý thuyết thương mại cũ này không giải thích được tại sao Mỹ và Châu Âu đều là những nền kinh tế phát triển, có kỹ thuật cao lại đi giao thương các mặt hàng công nghệ cao như xe hơi, smartphone hay máy bay. Hơn nữa, việc nhiều quốc gia như Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ vươn mình xuất khẩu những mặt hàng công nghệ cao ngược trở lại các thị trường phát triển như Châu Âu, Mỹ cũng khiến nguyên lý lợi thế so sánh của Richarson bị lung lay.
Mặc dù nhiều chuyên gia kinh tế đã cố gắng bổ sung cho lý thuyết của Richarson nhưng phải mãi đến khi Paul Krugman phát triển lý thuyết của mình vào thập niên 70 thì các chuyên gia kinh tế mới giải thích thỏa đáng hiện tượng giao thương giữa các nước trên thế giới.
Theo Krugman, việc sản xuất trên quy mô lớn làm giảm chi phí sản xuất và người tiêu dùng hiện nay có nhu cầu đa dạng về mẫu mã, chủng loại cũng như nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm.

Với 2 tiền đề trên, ông Krugman cho rằng các quốc gia thường tập trung sản xuất vào một vài thương hiệu hoặc thậm chí một bộ phận sản phẩm nhất định để tiết kiệm chi phí, hay còn gọi là lợi thế về quy mô. Tiếp đó, do người tiêu dùng có nhu cầu khác nhau về thương hiệu nên họ vẫn chấp nhận mua sản phẩm nhập ngoại kể cả khi chúng đã được sản xuất trong nước.

Điều này giải thích tại sao Châu Âu vẫn nhập xe Ford của Mỹ khi họ đã có BMW của Đức. Tương tự, lý thuyết của Krugman cũng giải thích thỏa đáng tại sao Hàn Quốc lại từ bỏ lợi thế so sánh nhiều lao động trước đây để vươn mình xuất khẩu những mặt hàng công nghệ cao sang Mỹ. Rõ ràng, người tiêu dùng Mỹ có nhu cầu đối với smartphone Samsung ngay cả khi nước này đã có iPhone.

Ngoài lý thuyết thương mại mới, Paul Krugman cũng là người giải thích thỏa đáng tại sao quá trình đô thị hóa và sản xuất tập trung tại các thành phố lớn lại tăng nhanh, tỷ lệ thuận với sự phát triển công nghệ trong thế kỷ 20 thông qua thuyết địa lý kinh tế mới.

Theo đó, ông Krugman cho rằng các công ty thường muốn tập trung sản xuất ở những vùng đông dân cư nhằm tận dụng nguồn lao động cũng như thị trường tại đây để tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, động thái này khiến giá hàng hóa rẻ hơn, đa dang dạng hơn, qua đó thu hút thêm người đến những đô thị này. Điều này giải thích quá trình đô thị hóa ban đầu tại các nước.

Mặc dù vậy, khi người dân bắt đầu tập trung đông tại một khu vực thì chi phí vận chuyển, giá cả cơ bản tại nơi này sẽ tăng, kéo theo việc làm tăng giá sản phẩm. Khi đó, công ty sẽ buộc phải lựa chọn giữa việc tận dụng lợi thế quy mô, thị trường tiêu thụ, nguồn lao động với chi phí vận chuyển cũng như giá thành tăng cao khi xác định nơi đặt nhà máy.

Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, chi phí vận chuyển cũng nhiều chi phí khác được tiết giảm nên lợi thế quy mô và thị trường tiêu dùng khiến các công ty ngày càng đặt nhiều nhà máy tại các khu vực đông dân hơn, qua đó tăng cường xu thế đô thị hóa.

Rõ ràng, mặc dù không phải quan chức chính phủ hay nắm giữ vai trò quan trọng trong chính quyền nhưng Paul Krugman có ảnh hưởng vô cùng to lớn đến nền kinh tế cũng như chính sách trên toàn cầu. Bằng ngòi bút và một bộ óc thông minh tuyệt đỉnh, Paul Krugman đã chứng minh cho cả thế giới thấy rằng, dù không bước chân ra khỏi phòng, mình vẫn có thể khiến mọi người phải cúi chào thán phục.
Hoàng Nam
Theo Trí Thức Trẻ

>> Nhờ trí tuệ của người đàn ông Do Thái này, Israel đã từ một hoang mạc khô cằn thành thiên đường nông nghiệp

Share:

Thứ Sáu, 9 tháng 9, 2016

Nhờ trí tuệ của người đàn ông Do Thái này, Israel đã từ một hoang mạc khô cằn thành thiên đường nông nghiệp

Nhắc đến nông nghiệp thì không thể không nói đến Israel, nói đến Israel thì không thể không nói đến giáo sư Daniel Hillel, người phát triển hệ thống tưới nhỏ giọt nổi tiếng thế giới.



>>Bí quyết lãnh đạo nào tạo nên thành công của người Do Thái? 

>>Vì sao người Do Thái thông minh nhất thế giới? 


Nếu nói về ngành nông nghiệp thế giới thì không thể không nói đến Israel khi quốc gia này trở thành nhà xuất khẩu nông nghiệp lớn trên thế giới trong khi vị trí địa lý không hề thích hợp cho nghề nông.

Tuy nhiên, nói đến nông nghiệp Israel thì không thể không nói đến nhà khoa học Daniel Hillel, người đã góp công lớn cho thành công này cũng như làm thay đổi tư tưởng về trồng trọt trên toàn thế giới.

Vào cuối thập niên 50, chuyên gia Hillel bắt đầu phát triển lý thuyết tưới nhỏ giọt trong lĩnh vực nông nghiệp. Theo đó, hệ thống tưới tiêu thay vì được sử dụng ồ ạt thì được điều chỉnh phủ hợp, từ tưới ít với lượng nhiều đến tưới nhiều lượng ít.

Bằng cách loại bỏ lượng nước dư thừa không hiệu quả trong tưới tiêu, phương pháp của ông Hillel giúp nông dân Israel dùng ít nước hơn nhưng lại cho hiệu suất cao hơn.

Thêm vào đó, việc những đường ống nhựa được phát minh vào thập niên 60 khiến cho quy trình thực hiện phương pháp tưới nhỏ giọt trở nên dễ dàng hơn cũng như ít tốn kém hơn.

Nhờ những cống hiến của mình, ông đã được trao thưởng giải “World Food Prize” năm 2012 cũng như trở thành giáo sư giảng dạy cho hàng loạt các trường đại học như Columbia, Massachusetts, Hebrew...

Ngoài ra, ông còn được mời cộng tác với nhiều tổ chức quốc tế như ngân hàng thế giới (World Bank), tổ chức nông lương quốc tế (FAO)...
Công trình của ông đã được ứng dụng rộng rãi tại Trung Đông và hiện đang lan ra nhiều khu vực khác như Châu Phi, Châu Á, Nam Mỹ hay Australia.

Với tình trạng môi trường ngày một ô nhiễm, thời tiết nóng lên và khí hậu ngày càng khắc nghiệt, công trình của giáo sư Hillel đang dần được phổ biến rộng rãi tại nhiều quốc gia. Không những thế, các nước còn cải tiến phương pháp tưới nhỏ giọt của chuyên gia Hillel, như sử dụng chất liệu ống tưới khác nhằm nâng cao hiệu quả tưới tiêu.

Tờ Wall Street Journal đã có bài phỏng vấn với giáo sư Hillel về công trình của ông cũng như những lo ngại về tình hình an ninh lương thực thế giới.


Giáo sư Daniel Hillel tại một trạm kiểm soát thủy lợi ở Israel
Giáo sư Daniel Hillel tại một trạm kiểm soát thủy lợi ở Israel

Một giấc mơ

WSJ: Điều gì đã truyền cảm hứng để ông đến với ngành nông nghiệp?

Giáo sư Hillel: Tôi sinh ra ở Los Angeles vào năm 1930 lúc cuộc Đại khủng hoảng kinh tế Mỹ bắt đầu. Sau đó, khi còn rất nhỏ, tôi cùng với gia đình chuyển đến Palestine, khu vực mà sau này trở thành nhà nước Israel.

Vào năm 9 tuổi, gia đình chúng tôi được chính phủ sắp xếp vào sống tại một khu tái định cư (kibbutz) và tôi nhanh chóng nhận ra từ thực tế rằng làm nông nghiệp trong điều kiện khô hạn ở Israel là một thử thách vô cùng khó khăn.

Tuy nhiên, cũng từ đây tôi bắt đầu có tình yêu với nông nghiệp, đất đai, trồng trọt, khí hậu. Tôi đã giữ tình yêu với nông nghiệp trong cả cuộc đời và nó trở thành niềm đam mê cũng như sự nghiệp của tôi. Quả thật, phát minh về hệ thống tưới nhỏ giọt là một món quà bất ngờ cũng như vô giá đối với tôi.

Tại thời điểm nào trong cuộc đời, ông chuyển sang tập trung nghiên cứu về phương pháp tưới nhỏ giọt?


Giáo sư Daniel Hillel
Giáo sư Daniel Hillel
Sau khi tôi tốt nghiệp trường đại học Hebrew vào cuối thập niên 50, tôi và các bạn của mình đã bắt đầu phát triển ý tưởng cải thiện hiệu quả sử dụng tài nguyên nước và đất trong nông nghiệp dưới điều kiện khí hậu khô hạn.

Quan điểm truyền thống của tưới tiêu trong nông nghiệp là dùng một lượng lớn nước làm ẩm đất, qua đó tạo điều kiện cho hạt mầm phát triển cũng như cung cấp dinh dưỡng cho cây. Tuy nhiên, chúng tôi nhận ra rằng phương pháp này khiến hạt mầm bị thừa nước khi mới tưới và dần thiếu nước trở lại cho đến khi người nông dân tưới thêm lần nữa, qua đó tốn quá nhiều nước.

Chúng tôi nhận ra rằng bằng việc tưới nhỏ giọt, chính xác tại nơi hạt mầm được gieo và với lượng nước vừa đủ, hạt mầm sẽ không lâm vào tình trạng thừa hay thiếu nước cũng như không bị ảnh hưởng tới quá trình phát triển.

Bằng cách này, hệ thống tưới tiêu sẽ được dùng bền vững hơn do lượng nước được sử dụng hiệu quả và người nông dân sẽ thu hoạch được nhiều hơn trên mỗi mét vuông trồng trọt.

Làm sao ông có thể phát triển từ một ý tưởng đơn giản thành một hệ thống lý thuyết và áp dụng chúng vào thực tế? Ông có gặp khó khăn nào không trong quá trình áp dụng hệ thống này?

Chúng tôi đã khá may mắn khi hệ thống ống nhựa được sản xuất đại trà với giá thành rẻ vào thập niên 60, qua đó giảm chi phí xây dựng hệ thống tưới tiêu nhỏ giọt.

Trước đó, hệ thống tưới nhỏ giọt chỉ có thể làm thủ công hoặc bằng những đường ống kim loại khá đắt đỏ cũng như thiếu sự chính xác trong tưới nước.

Hệ thống ống nhựa giúp người nông dân có thể tưới chính xác đến từng khu vực gieo hạt mầm với một lượng vừa phải, liên tục. Nhờ đó, chúng tôi có thể điều khiển bao nhiều nước là đủ cho hạt mầm tùy vào giai đoạn tăng trưởng của cây.


Sức mạnh của một giọt nước

WSJ: Làm thế nào mà hệ thống tưới nhỏ giọt của ông lại được phổ biến ra toàn thế giới?

Giáo sư Hillel: Hệ thống tưới nhỏ giọt được cấp bằng sáng chế cho hãng Simcha Blass, sau đó được áp dụng vào thực tế tại Israel trong thập niên 60. Kể từ đó, sự thành công của hệ thống này bắt đầu khiến chúng được toàn thế giới chú ý.

Trên thực tế, tôi cũng đã cộng tác với Liên hợp quốc (UN) và World Bank để phát triển hệ thống này tại hơn 30 quốc gia, bao gồm Jordan, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE), Palestine cũng như các nước tại châu Á và châu Phi.

Tại sao hệ thống tưới nhỏ giọt của ông ngày nay lại ngày càng được nhân rộng như vậy?

Chúng ta có thể dễ dàng thấy rằng hệ thống tưới nhỏ giọt đang được nhân rộng ra nhiều khu vực trên thế giới như Mỹ, Ấn Độ, Châu Phi... Tất cả những vùng trên đều có chung một vấn đề là nhu cầu tăng cường năng suất nông nghiệp do sự bùng nổ dân số và biến đổi khí hậu.

Hơn nữa, những quốc gia này đòi hỏi loại công nghệ có thể liên tục đổi mới, nâng cấp cũng như phục vụ được mọi loại cây trồng và thế là hệ thống tưới nhỏ giọt được áp dụng.

Chúng tôi đã thấy nhiều cải tiến trong việc sử dụng hệ thống này, như dùng năng lượng mặt trời để cung cấp điện cho hệ thống hay dùng vật lieuj mới, như gốm, để làm đường ống cho phù hợp điều kiện của từng vùng.

Ông có thể lấy ví dụ một quốc gia đã áp dụng thành công hệ thống tưới nhỏ giọt này không?

Theo tôi, Ai Cập là một ví dụ điển hình ngoài Israel đạt được thành công lớn với hệ thống tưới tiêu này. Đất nước này có dân số tăng trưởng nhanh và các nhà quản lý tại đây đã áp dụng thành công hệ thống tưới nhỏ giọt nhằm tăng cường năng suất nông nghiệp.


Giáo sư Daniel Hillel với những người nông dân trồng cam tại Jordan-Israel
Giáo sư Daniel Hillel với những người nông dân trồng cam tại Jordan-Israel
Tầm nhìn tương lai

WSJ: Theo ông, ngành nông nghiệp nói chung và hệ thống tưới tiêu nói riêng nên tập trung phát triển theo hướng nào trong tương lai?

Giáo sư Hillel: Theo tôi, thay vì chỉ kiểm soát tài nguyên đất, nước hoặc khoanh vùng khu vực trồng trọt, chính phủ các nước nên đặt trọng tâm vào toàn cảnh môi trường của quốc gia. Hệ thống tưới tiêu không chỉ là vấn đề đất hay nước mà còn có thể bao gồm những yếu tố như cường độ ánh nắng, sức gió, hay thậm chí giống cây trồng.

Chúng ta nên hạn chế khu vực sản xuất nông nghiệp và tăng cường quản lý năng suất hơn là mở rộng tràn lan nhưng hiệu quả kém. Với cách làm này, sản lượng nông nghiệp vẫn tốt trong khi chúng ta có thể bảo vệ được điều kiện tự nhiên môi trường và đa dạng sinh học.

Ông có cho rằng chính phủ các nước cần làm nhiều hơn để đưa vấn đề nông nghiệp và an ninh lương thực thành trọng tâm trong chương trình nghị sự?

Tôi tin rằng chính phủ các quốc gia cũng như các tổ chức quốc tế cần phải làm nhiều hơn nữa trong vấn đề này.

Rõ ràng, những nguy cơ và vấn đề trước mắt như khủng hoảng kinh tế đang khiến các nhà lãnh đạo mát sự tập trung đối với mối nguy dài hạn, đó là sự suy giảm điều kiện sống, sự đa dạng sinh học trong xã hội loài người do bị ảnh hưởng từ sự suy giảm tài nguyên cũng như biến đổi khí hậu.
Hoàng Nam

Share:

Trang

Nổi bật

Giới siêu giàu kiếm tiền từ đâu?