Kiến thức chứng khoán - Kinh nghiệm đầu tư chứng khoán

Hiển thị các bài đăng có nhãn chuyên gia kinh tế. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn chuyên gia kinh tế. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 16 tháng 9, 2016

Chỉ cần ngồi nhà, người đàn ông này vẫn tiên đoán chính xác những gì đang diễn ra trên thế giới, ẵm luôn cả giải Nobel

Bằng ngòi bút và một bộ óc thông minh tuyệt đỉnh, Paul Krugman đã đưa ra những dự báo rất chính xác về kinh tế Mỹ cũng như kinh tế toàn cầu, đoạt giải Nobel mà chẳng cần phải đi đâu.

Chuyên gia kinh tế Paul Krugman sinh năm 1953 trong một gia đình người Mỹ gốc Do Thái. Ông đã từng làm giáo sư kinh tế tại trường đại học New York, MIT và Princeton. Năm 2008, ông đạt giải thưởng Nobel về kinh tế học cho những đóng góp về lý thuyết kinh thế như thuyết thương mại mới hay địa lý kinh tế mới.

Ông Krugman đã viết hơn 20 cuốn sách, hơn 200 bài viết học thuật và hơn 750 bài phân tích trên các tờ báo lớn tại Mỹ. Nội dung của các bài viết này trải dài từ phân phối thu nhập, thuế, kinh tế vĩ mô cho đến kinh tế quốc tế.

Chuyên gia kinh tế này còn là chuyên gia phân tích thường kỳ cho tờ New York Times, đồng thời thu hút được lượng lớn độc giả quan tâm, từ sinh viên, giáo sư cho đến các doanh nhân, nhà chính trị đối với các bài viết của mình.

Ảnh hưởng của ông Krugman đến nền kinh tế, hệ thống tài chính là khá lớn khi những lý thuyết và quan điểm của ông được nhiều người quan tâm, đặc biệt là trong giới học thuật. Năm 2016, RePec bình chọn ông là nhà kinh tế có tầm ảnh hưởng lớn thứ 24 trên thế giới nhờ những đóng góp to lớn của chuyên gia này đối với toàn cầu.

Đây là một điều khá đặc biệt khi nhiều chuyên gia kinh tế hoặc rất giỏi về phân tích số liệu, hoặc giỏi viết báo, hoặc có quan hệ khá rộng, trong khi Paul Krugman chỉ đơn thuần nghĩ đến những điều mà không ai nhận ra.

Nhà tiên tri nổi tiếng

Ngoài những bài viết học thuật gây tiếng vang, chính các dự báo chính xác của Krugman về kinh tế toàn cầu mới là điều khiến ông trở nên nổi tiếng và được quan tâm rộng rãi.

Vào thập niên 90, chính Paul Krugman là người đã dự báo chuẩn xác nền kinh tế Châu Á, đặc biệt là Nhật Bản đang lâm vào cái bẫy thanh khoản khi chính phủ liên tục bơm tiền vào hệ thống ngân hàng, sử dụng các chính sách nới lỏng tiền tệ để kích thích kinh tế nhưng hiệu quả lại không được như ý.

Nguyên nhân chính là tỷ lệ lạm phát thấp khiến Nhật Bản rơi vào nguy cơ giảm phát, người dân thay vì chi tiêu thêm lại tiết kiệm tiền để chờ giá xuống hoặc để đề phòng khủng hoảng kinh tế xảy ra. Các doanh nghiệp không đầu tư tích cực hơn dù đã được ngân hàng nới lỏng tín dụng.

Đúng như những gì ông Krugman dự đoán, Nhật Bản đã lâm vào tình trạng tăng trưởng chậm vào cuối thập niên 90 và để Trung Quốc vượt mặt sau đó.

Ngay từ cuối thập niên 90, Paul Krugman đã nhận định việc các ngân hàng hạ lãi suất cơ bản xuống mức quá thấp sẽ tạo nên nhiều rủi ro khi họ không còn nhiều công cụ tài chính nếu kinh tế không tăng trưởng như mong đợi và khủng hoảng xảy ra một lần nữa. Dự đoán này của Krugman lại chuẩn xác một lần nữa khi cả Châu Âu và Nhật Bản hiện đang có mức lãi suất rất thấp, thậm chí xuống mức âm nhưng nền kinh tế lại không bùng nổ như kỳ vọng.

Thậm chí ngay tại Mỹ, việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) có nên tăng lãi suất từ mức cực thấp 0,25-0,5% hay không hiện nay cũng đang gây ra vô vàn tranh luận bởi tăng trưởng của nước này vẫn chưa thực sự rõ ràng.

Cũng trong giai đoạn cuối thập niên 90, chuyên gia Krugman cho rằng những con rồng Châu Á, sự kỳ diệu của Trung Quốc, những con hổ Đông Á... đang tăng trưởng không bền vững. Năm 1994, chính Krugman đã chỉ ra rằng sự tăng trưởng của các nền kinh tế Châu Á phụ thuộc quá nhiều vào các dòng vốn tín dụng cũng như sự dồi dào trong lực lượng lao động. Trong khi đó, nền kinh tế và những yếu tố cơ bản của các nước này lại không được cải thiện mấy.
Theo Krugman, chỉ khi các nền kinh tế Châu Á này cải thiện được những yếu tố cơ bản về kinh tế, về năng suất thì tăng trưởng mới bền vững trong dài hạn.

Đúng như những dự đoán, kinh tế Trung Quốc đang giảm tốc còn nhiều nước Châu Á khác như Hàn Quốc, Mông Cổ, Ấn Độ, khu vực Đông Nam Á đang gặp khó khăn so các chính sách bất hợp lý trước đây.

Vào đầu thập niên 2000, Krugman cũng phản đối chính sách cắt giảm thuế của cựu Tổng thống George Bush khi cho rằng điều này chỉ làm suy giảm ngân sách chứ không thực sự thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng bền vững.

Trên thực tế, chính sách nới lỏng tiền tệ của chính quyền Bush đã gián tiếp thúc đẩy đầu tư và tạo nên cơn khủng hoảng năm 2008 khi bong bóng nhà đất tại Mỹ đổ vỡ. Trong khi nhiều chuyên gia có quan điểm tích cực với thị trường thời điểm năm 2008, chính Krugman là chuyên gia có những quan điểm bi quan về nền kinh tế.

Năm 2009, Krugman cho rằng các chính sách kích thích kinh tế mới của Tổng thống Barack Obama là quá nhẹ và không đủ để đưa nền kinh tế nước này trở lại thời kỳ đỉnh cao. Thêm vào đó, chính phủ đang tốn tiền để giải cứu những ông lớn trong ngành tài chính thay vì thực sự giải quyết những bất cập còn tồn tại trong ngành.

Một lần nữa, Krugman lại đúng khi nền kinh tế Mỹ dù đã có cải thiện nhưng chưa thể lấy lại hào quang trước khủng hoảng 2008. Thêm vào đó, ngành ngân hàng cũng ngày càng gặp khó khăn dù họ đã sống sót sau khủng hoảng. Hàng trăm nghìn nhân viên trong ngành đã bị sa thải do kết quả kinh doanh yếu kém của hệ thống ngân hàng.

Paul Krugman chụp ảnh cùng Tổng thống Geprge Bush
Paul Krugman chụp ảnh cùng Tổng thống Geprge Bush

Lý thuyết thương mại mới và địa lý kinh tế mới

Nếu những dự đoán chính xác của Paul Krugman khiến ông trở nên nổi tiếng và được nhiều người biết đến thì việc phát triển những lý thuyết kinh tế mới là yếu tố chủ chốt để chuyên gia này giành được giải thưởng Nobel kinh tế năm 2008.

Một trong những công trình mà ông Krugman xây dựng là lý thuyết thương mại mới, một học thuyết giúp giải thích sự bất hợp lý của lý thuyết thương mại cũ trước đó.

Trước năm 1970, lý thuyết thương mại quốc tế của chuyên gia kinh tế David Ricardo được sử dụng rộng rãi và nguyên lý chủ chốt của lý thuyết này là lợi thế so sánh. Theo đó, các quốc gia mua bán, trao đổi hàng hóa là do họ có lợi thế so sánh khác nhau.

Ví dụ, nước A có lợi thế sản xuất hàng nông sản nhưng không chuyên về các mặt hàng khai khoáng, nghĩa là nước A có lợi thế so sánh về nông sản. Trong khi nước B có lợi thế về khai khoáng nhưng có vị trí địa lý không thuận lợi cho nông nghiệp. Kết quả là nước A giao thương với nước B dựa trên lợi thế so sánh của từng nước để trao đổi cho nhau những hàng hóa mà đối phương có nhu cầu.

Đến những năm 1930, lý thuyết của Ricardo được hai chuyên gia Eli Heckscher và Bertil Ohlin mở rộng. Theo đó, những nước có lợi thế sản xuất hàng hóa dựa trên lực lượng lao động lớn nhưng thiếu vốn và kỹ thuật sẽ giao thương với quốc gia có lợi thế ngược lại.

Điều này giải thích tại sao những nước đang phát triển và có lực lượng lao động dồi dào như Trung Quốc, Việt Nam, Ấn Độ xuất khẩu các mặt hàng kỹ thuật kém như may mặc, giày dép... sang Mỹ còn phía Mỹ xuất khẩu các sản phẩm kỹ thuật cao như máy tính, máy bay, thiết bị điện tử... ngược trở lại.

Tuy nhiên, mô hình lý thuyết thương mại cũ này không giải thích được tại sao Mỹ và Châu Âu đều là những nền kinh tế phát triển, có kỹ thuật cao lại đi giao thương các mặt hàng công nghệ cao như xe hơi, smartphone hay máy bay. Hơn nữa, việc nhiều quốc gia như Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ vươn mình xuất khẩu những mặt hàng công nghệ cao ngược trở lại các thị trường phát triển như Châu Âu, Mỹ cũng khiến nguyên lý lợi thế so sánh của Richarson bị lung lay.
Mặc dù nhiều chuyên gia kinh tế đã cố gắng bổ sung cho lý thuyết của Richarson nhưng phải mãi đến khi Paul Krugman phát triển lý thuyết của mình vào thập niên 70 thì các chuyên gia kinh tế mới giải thích thỏa đáng hiện tượng giao thương giữa các nước trên thế giới.
Theo Krugman, việc sản xuất trên quy mô lớn làm giảm chi phí sản xuất và người tiêu dùng hiện nay có nhu cầu đa dạng về mẫu mã, chủng loại cũng như nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm.

Với 2 tiền đề trên, ông Krugman cho rằng các quốc gia thường tập trung sản xuất vào một vài thương hiệu hoặc thậm chí một bộ phận sản phẩm nhất định để tiết kiệm chi phí, hay còn gọi là lợi thế về quy mô. Tiếp đó, do người tiêu dùng có nhu cầu khác nhau về thương hiệu nên họ vẫn chấp nhận mua sản phẩm nhập ngoại kể cả khi chúng đã được sản xuất trong nước.

Điều này giải thích tại sao Châu Âu vẫn nhập xe Ford của Mỹ khi họ đã có BMW của Đức. Tương tự, lý thuyết của Krugman cũng giải thích thỏa đáng tại sao Hàn Quốc lại từ bỏ lợi thế so sánh nhiều lao động trước đây để vươn mình xuất khẩu những mặt hàng công nghệ cao sang Mỹ. Rõ ràng, người tiêu dùng Mỹ có nhu cầu đối với smartphone Samsung ngay cả khi nước này đã có iPhone.

Ngoài lý thuyết thương mại mới, Paul Krugman cũng là người giải thích thỏa đáng tại sao quá trình đô thị hóa và sản xuất tập trung tại các thành phố lớn lại tăng nhanh, tỷ lệ thuận với sự phát triển công nghệ trong thế kỷ 20 thông qua thuyết địa lý kinh tế mới.

Theo đó, ông Krugman cho rằng các công ty thường muốn tập trung sản xuất ở những vùng đông dân cư nhằm tận dụng nguồn lao động cũng như thị trường tại đây để tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, động thái này khiến giá hàng hóa rẻ hơn, đa dang dạng hơn, qua đó thu hút thêm người đến những đô thị này. Điều này giải thích quá trình đô thị hóa ban đầu tại các nước.

Mặc dù vậy, khi người dân bắt đầu tập trung đông tại một khu vực thì chi phí vận chuyển, giá cả cơ bản tại nơi này sẽ tăng, kéo theo việc làm tăng giá sản phẩm. Khi đó, công ty sẽ buộc phải lựa chọn giữa việc tận dụng lợi thế quy mô, thị trường tiêu thụ, nguồn lao động với chi phí vận chuyển cũng như giá thành tăng cao khi xác định nơi đặt nhà máy.

Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, chi phí vận chuyển cũng nhiều chi phí khác được tiết giảm nên lợi thế quy mô và thị trường tiêu dùng khiến các công ty ngày càng đặt nhiều nhà máy tại các khu vực đông dân hơn, qua đó tăng cường xu thế đô thị hóa.

Rõ ràng, mặc dù không phải quan chức chính phủ hay nắm giữ vai trò quan trọng trong chính quyền nhưng Paul Krugman có ảnh hưởng vô cùng to lớn đến nền kinh tế cũng như chính sách trên toàn cầu. Bằng ngòi bút và một bộ óc thông minh tuyệt đỉnh, Paul Krugman đã chứng minh cho cả thế giới thấy rằng, dù không bước chân ra khỏi phòng, mình vẫn có thể khiến mọi người phải cúi chào thán phục.
Hoàng Nam
Theo Trí Thức Trẻ

>> Nhờ trí tuệ của người đàn ông Do Thái này, Israel đã từ một hoang mạc khô cằn thành thiên đường nông nghiệp

Share:

Thứ Tư, 6 tháng 1, 2016

Hiểu về cơ chế tỷ giá mới của Việt Nam chỉ sau 3 phút

Ngân hàng Nhà nước vừa phát đi công bố chính thức về cách điều hành tỷ giá mới - Tỷ giá trung tâm.

Để hiểu rõ hơn về phương thức thực hiện cũng như các yếu tố tác động đến tỷ giá trung tâm được đưa ra hàng ngày, Cafebiz trân trọng giới thiệu đến bạn đọc thông tin dưới góc nhìn từ Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Thương mại cũng như chuyên gia kinh tế.

Ông Bùi Quốc Dũng - Vụ trưởng Vụ chính sách tiền tệ: Điều hành tỷ giá mới giúp doanh nghiệp đỡ sốc hơn
Tỷ giá trung tâm được NHNN công bố hàng ngày vào trước phiên giao dịch dựa trên 3 chỉ số chính: Sự biến động của một rổ các đồng tiền của các nước đối tác kinh tế chủ chốt của Việt Nam, chỉ số phản ánh cung cầu ngoại tệ và các cân đối vĩ mô.

NHNN dựa vào 8 đồng tiền của các nước có quan hệ thương mại, vay, trả nợ, đầu tư lớn với Việt Nam. Cụ thể là: USD, Euro, NDT, Yên Nhật, Dollar Singapore, Won, Dollar Taiwan và Bath Thái.
Việc lựa chọn được tính toán kỹ và so sánh với danh sách 9 hay 15 đồng tiền khác thì thấy không có sai lệch đáng kể, nên sử dụng 8 đồng tiền giúp cho việc tính toán dễ dàng hơn.

Cùng với biện pháp xác định tỷ giá trung tâm, NHNN cũng bổ sung thêm cách thức giao dịch với NHTM theo hợp đồng phái sinh, thay cho hợp đồng giao ngay trước đây.

Về biên độ, NHNN tiếp tục áp dụng biên độ giao dịch +/-3% như đang thực hiện.

Cơ chế tỷ giá mới linh hoạt khiến cho cung cầu thị trường thông suốt nên việc mua bán ngoại tệ sẽ thuận lợi hơn. Đồng thời, việc thay đổi theo ngày giúp tỷ giá biến động nhỏ hơn, không gây sốc cho doanh nghiệp như trước đây.

Cuối cùng là khuyến khích doanh nghiệp sử dụng công cụ phái sinh phòng ngừa rủi ro biến động tỷ giá. Trước đó, NHNN đã ban hành Thông tư 15 về giao dịch kỳ hạn, khuyến khích sử dụng sản phẩm phái sinh, ngăn chặn đầu cơ ngoại tệ.

Thực tế khi triển khai đồng loạt các biện pháp, doanh số giao dịch kỳ hạn trên thị trường tăng rõ rệt từ dưới 10 triệu USD/ngày lên 100 triệu USD/ngày.

TS. Võ Trí Thành, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương:
Cách điều hành cơ chế tỷ giá mới của NHNN là cần thiết trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu.

Tất nhiên, sẽ không có một cơ chế điều hành tỷ giá nào là hoàn hảo mà không có hiệu ứng khác. Một cơ chế linh hoạt và cần thiết khi đáp ứng được những yếu tố sau: Khả năng cạnh tranh ví dụ của xuất khẩu tốt hơn; Hấp thụ tốt hơn các cú sốc tự bên ngoài; Góp phần nhất định trong việc hạn chế đầu cơ.  Quan trọng nhất vẫn là đảm bảo chính sách tiền tệ có sự tự chủ cao hơn..

Doanh nghiệp thích được xác định với các biến cố cố định để dễ dàng tính toán hơn. Với cơ chế này, mức độ bất định tăng lên có thể gây khó cho doanh nghiệp.

Vì vậy, bên cạnh điều hành để tránh các cú sốc lớn thì NHNN sẽ có những giải pháp đồng bộ để đảm bảo về cơ bản không biến động quá lớn.

NHNN phải gắn với thị trường ngoại tệ mà ở đó các NHTM tham gia và NHNN là 1 bên nhằm đưa ra tín hiệu cho thị trường ngoại hối và có một cơ chế giám sát.

Bên cạnh đó, NHTM cần phát triển công cụ thị trường phái sinh, thị trường quyền chọn, bảo hiểm và hướng dẫn các doanh nghiệp qua đó có các giao dịch gắn với các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Doanh nghiệp Việt Nam chưa phải quá quen với công cụ thị trường phái sinh do vậy cần một quá trình tương tác giữa NHTM, các định chế tài chính và doanh nghiệp.

Đây cũng chính là lý do vì sao chúng ta cần bước đi linh hoạt dần dần với học hỏi của thị trường và hội nhập của Việt Nam.

Với tất cả các biến số đặc biệt về tài chính của thế giới và Việt Nam có thể nói ngắn gọn việc hạ lãi suất cho vay trong năm 2016 là rất khó khăn.

Việc phối hợp các chính sách gắn với điều hành theo cơ chế mới này, làm thế nào để duy trì lãi suất giữ được như hiện nay hoặc tăng rất nhỏ đã là một thành công trong năm nay rồi.
Ông Lê Đức Thọ, Tổng giám đốc NHTM Công thương Việt Nam (Vietinbank): Vietinbank có khả năng giảm lãi suất
Việc NHNN đổi mới trong cơ chế điều hành tỷ giá là bước đi cần thiết và quan trọng, giúp phản ánh được thị trường, những yếu tố cung cầu của cả trong nước và quốc tế đầy đủ hơn.

Tuy nhiên, liều lượng của nó được phản ánh vào đó như thế nào còn tùy thuộc vào yếu tố thứ 3 – mục tiêu điều hành của chính sách tiền tệ.

Nhà điều hành, ở đây là NHNN, phải quyết định liều lượng của từng yếu tố để đảm bảo được tỷ giá vẫn phản ánh được nhu cầu, cung cầu ngoại tệ cần thiết trên thị trường. Giúp cho hàng hóa, dịch vụ doanh nghiệp xuất khẩu có thể cạnh tranh tốt nhất trong bối cảnh hội nhập sâu rộng hơn.

Đồng thời, tỷ giá cần cân đối các khoản vay nợ nước ngoài, hàng hóa nhập khẩu không có ảnh hưởng và cú sốc quá lớn làm tăng việc trả nợ, vượt ra khả năng chịu đựng của các doanh nghiệp và nền kinh tế. Tất cả việc này là của NHNN.

Tôi cho rằng với cơ chế này, các sản phẩm phái sinh trong đó có sản phẩm kỳ hạn sẽ được đưa vào áp dụng phổ biến hơn và nhu cầu mua bán ngoại tệ không chỉ được thỏa mãn bởi phương thức giao dịch giao ngay mà còn được thực hiện thông qua phương thức giao dịch có kỳ hạn.

Từ đó, chắc chắn sẽ làm giảm đáng kể áp lực mua bán ngoại tệ, làm cho tỷ giá được phản ánh xác thực hơn cung cầu thị trường.

Trên thực tế, ngày hôm nay, ngày đầu tiên áp dụng cơ chế mới, ở góc độ NHTM, chúng tôi thấy rằng tâm lý thị trường đón nhận tích cực, lượng ngoại tệ giao dịch thông suốt, thanh khoản tốt, tỷ giá trong biên độ NHNN quản lý, thấp hơn khá lớn so với mức trần quy định theo cơ chế mới này.

Chúng tôi đã triển khai cơ chế mới, khách hàng hết sức phấn khởi khi cơ chế này tạo ra sự linh hoạt cần thiết cho các doanh nghiệp, tránh tâm lý ỷ lại của một số doanh nghiệp và TCTD.

Về lãi suất, lãi suất cho vay năm 2016 tùy thuộc vào diễn biến kinh tế vĩ mô cũng như hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp.


Vietinbank có khả năng thực hiện được việc giảm lãi suất cho vay trung hạn và dài hạn tuy nhiên phải tùy thuộc vào từng dự án và khả năng của Vietinbak.
Tô Mạn
Theo Trí Thức Trẻ
Share:

Thứ Sáu, 19 tháng 6, 2015

Thế hệ Y và kinh tế thế giới 5 năm tới

Nếu nền kinh tế tiếp tục vững mạnh, thế hệ Y sẽ bắt đầu tạo ra các giao dịch thương mại giá trị lớn đóng góp cho sự tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, thế hệ này cũng có thể gây tổn thất cho nền kinh tế bởi các khoản nợ sinh viên đang làm cho thế hệ này giảm chi tiêu và không lựa chọn mua nhà.

- S&P nhận định thế hệ được sinh ra trong khoảng thời gian từ năm 1981 đến 1997 này đã lên đến con số 80 triệu người và hàng năm chi tiêu khoảng 600 tỉ USD. Đến năm 2020, con số có thể lên đến 1,4 nghìn tỉ USD, tương đương 30% tổng doanh số bán lẻ

- Đáng ngạc nhiên là thế hệ này có thói quen chi tiêu dè dặt giống thế hệ "Im lặng" lớn lên trong và sau cuộc Đại suy thoái.

- Nếu nền kinh tế tiếp tục vững mạnh theo như dự đoán, có khả năng cao rằng thế hệ Y sẽ bắt đầu tạo ra các giao dịch thương mại giá trị lớn đóng góp cho sự tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, thế hệ này cũng có thể gây tổn thất cho nền kinh tế bởi các khoản nợ sinh viên đang làm cho thế hệ này giảm chi tiêu và không lựa chọn mua nhà


Năm nay, “Thế hệ Y” hay “Thế hệ thiên niên kỷ” (Millennials) được dự đoán là sẽ vượt qua thế hệ Boomers để trở thành thế hệ đông đảo nhất nước Mỹ và ảnh hưởng của họ đến nền kinh tế sẽ sớm được cảm nhận theo một thang đo thậm chí lớn hơn.

Báo cáo của Beth Ann Bovino, chuyên gia kinh tế trưởng của Hãng xếp hạng tín nhiệm Standard and Poor’s (Mỹ), nhận định thế hệ được sinh ra trong khoảng thời gian từ năm 1981 đến 1997 này đã lên đến con số 80 triệu người và hàng năm chi tiêu khoảng 600 tỉ USD. Đến năm 2020, con số có thể lên đến 1,4 nghìn tỉ USD, tương đương 30% tổng doanh số bán lẻ.

Đáng ngạc nhiên là thế hệ này có thói quen chi tiêu dè dặt giống thế hệ "Im lặng" lớn lên trong và sau cuộc Đại suy thoái. Điểm phân biệt giữa thế hệ Y và các thế hệ khác chính là những khoản vay nợ sinh viên mà thế hệ này phải gánh vác. Điều này dẫn tới việc Gen Y (và một số Gen X) có ít cơ hội tiếp cận với những việc làm toàn thời gian và kém giàu có hơn so với thế hệ trước.

Bovino đã nhìn vào những gì mà thế hệ này có thể làm trong vòng 5 năm tới để xem chúng sẽ ảnh hưởng tới kinh tế Mỹ như thế nào.

Nếu nền kinh tế tiếp tục vững mạnh theo như dự đoán của S&P thì có khả năng cao rằng thế hệ Y sẽ bắt đầu tạo ra các giao dịch thương mại giá trị lớn đóng góp cho sự tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, thế hệ này cũng có thể gây tổn thất cho nền kinh tế bởi các khoản nợ sinh viên đang làm cho thế hệ này giảm chi tiêu và không lựa chọn mua nhà

“Thế hệ trẻ có thể chiếm tới hơn 50% nguồn nhân lực trong vòng 5 năm tới. Họ vốn đã là nhóm người đông nhất trong lực lượng lao động Mỹ”. Kết hôn và sinh con muộn, thuê nhà thay vì mua nhà, thích sống ở thành thị hơn và không sở hữu nhiều xe là những nguyên nhân giải thích tại sao thế hệ Y có thế làm sụp đổ nền kinh tế Mỹ. “Hai phần ba tổng GDP là tiêu dùng nên chúng ta cần những người tiêu tiền", Bovino nói.

Thế hệ Y cũng là "thế hệ Im lặng"?

Thế hệ Y mang một số đặc điểm tương tự như những người thuộc Thế hệ Im lặng, những người được sinh ra từ giữa những năm 1920 đến đầu những năm 1940. Họ lớn lên trong và sau cuộc Đại suy thoái nhưng còn quá trẻ để tham gia chiến đấu trong gia đoạn đầu Thế chiến thứ II.

Cả hai thế hệ này đều lớn lên trong khoảng thời gian phải trải qua cuộc khủng hoảng tài chính lớn. Do đó thế hệ Y đang khá thận trọng về tài chính, nắm giữ hơn một nửa tài sản của họ bằng tiền mặt, khoảng một phần ba vào chứng khoán, và 15% trong tài sản thu nhập cố định.

Tuy nhiên, hai thế hệ khác nhau ở chỗ khi hoàn tất việc học của mình, thế hệ Im lặng có thể gia nhập vào một nền kinh tế phát triển mạnh mẽ được hỗ trợ bởi chương trình chính sách kinh tế mới New Deal. Ngược lại, S&P chỉ ra rằng tỷ lệ chi tiêu chính phủ vào các dự án cơ sở hạ tầng so với GDP hiện ở mức thấp nhất trong hai thập kỷ qua có thể tác động đáng kể đến khả năng cạnh tranh lâu dài của kinh tế Mỹ.

Tiền sử vay nợ sinh viên

Sự khác biệt lớn nhất giữa hai thế hệ là những khoản nợ vay sinh viên của Thế hệ Y có thể làm suy giảm khả năng chi tiêu của họ. Sau khi điều chỉnh theo lạm phát, những người đi vay hiện nay phải trả lại số tiền cao gấp đôi so với những người đi vay cách đây 20 năm. Năm 1989, trung bình 3/5 người Mỹ nghèo nhất trong độ tuổi 18-34 có tài sản ròng 3.300 USD. Năm 2013, cũng nhóm độ tuổi này phải gánh trên vai khoản nợ ròng 7,700 USD.

Gánh nặng nợ đôi khi có thể buộc các thành viên của thế hệ này phải chấp nhận công việc họ không muốn, trong khi nếu không có nợ họ có thể tìm được những cơ hội tốt hơn. Người lao động bắt đầu sự nghiệp đúng vào thời kỳ kinh tế suy thoái sẽ phải mất ít nhất 15 năm để bù đắp số thu nhập giảm đi so với những người may mắn bước vào thị trường lao động đúng lúc kinh tế thịnh vượng.

Tuy nhiên, do thế hệ Y là thế hệ được giáo dục tốt nhất, Bovino tin rằng thành công trong sự nghiệp của họ đã bị trì hoãn, chứ không phải bị hủy bỏ. Tiền lương được dự kiến sẽ tăng đến 3% trong năm nay, có nghĩa là mức lương trả cho các công nhân trẻ sẽ tăng lên. Bởi vì người lao động có trình độ đại học thường kiếm được gấp đôi so với những người mới chỉ kết thúc trung học phổ thông nên Thế hệ Y có thể có nhiều khả năng kiếm tiền hơn.

Viễn cảnh bất lợi: Nhà đất chính là chìa khóa

Nếu tiền lương không tăng lên trong các thập kỷ tiếp theo, thế hệ Y sẽ phải tiếp tục "nhịn" mua bán những mặt hàng có giá trị lớn như nhà và xe hơi, đồng thời chậm trễ trong việc lập gia đình. Nhà đất theo đó cũng sẽ phát triển chậm. Bovino ước tính rằng viễn cảnh bất lợi này có thể có nghĩa là Mỹ sẽ bỏ lỡ 49 tỉ USD mỗi năm cho đến năm 2019.

Thế hệ Y đang hình thành các hộ gia đình với một tốc độ chậm hơn so với các thế hệ trước. Tỷ lệ thanh niên tuổi từ 25 đến 34 sống cùng bố mẹ đã tăng 17,5% trong giai đoạn 2007 - 2010. Năm 1960, 3/4 nữ giới và 2/3 nam giới trong nhóm này đã độc lập về tài chính, đã kết hôn và có con ở độ tuổi 30. Thậm chí vào năm 2003, số người Mỹ ở độ tuổi 30 tuổi có thể sở hữu nhà riêng nhiều hơn gấp đôi so với những người vẫn sống cùng bố mẹ.

Theo truyền thống, tỷ lệ những người có tiền sử nợ sinh viên sở hữu nhà sẽ cao hơn những người không có. Nhưng đây là lần đầu tiên trong ít nhất 10 năm, những người 30 tuổi không có tiền sử vay nợ sinh viên có khoản thế chấp nhiều hơn so với những người có tiền sử vay nợ.

Một vấn đề khác là việc giải ngân những khoản cho vay sinh viên đang ngày càng xấu đi. Mặc dù S&Pkhông mong việc trì hoãn trả nợ này lan rộng nhưng một số lượng đáng kể các vụ vỡ nợ sẽ làm tổn thương tài chính của đất nước kể từ khi chính phủ liên bang đỡ lưng cho hơn 85% các khoản vay sinh viên.

‘Vận tốc thoát khỏi lực hấp dẫn’

Bất chấp những thách thức này, các tín hiệu gần đây cho thấy vấn đề tạo việc làm và tiền lương đang tăng lên nhanh hơn so với tỉ lệ lạm phát.

Và Thế hệ Y đang bắt đầu mua xe mới nhiều hơn, họ đang vượt qua thế hệ X để trở thành nhóm khách hàng lớn thứ hai. "Chúng tôi đang nhìn thấy Gen Y bắt đầu mua xe hơi nhiều hơn, đó là những mặt hàng đắt tiền, và đó có nghĩa là họ đang cảm thấy một chút lạc quan hơn," Bovino nói.

S&P dự đoán kinh tế sẽ tiếp tục phát triển theo cách mà thế hệ Y có thể "chuyển tiếp vào giai đoạn trưởng thành theo như định nghĩa truyền thống để bắt đầu mua nhà, mua xe, và các mặt hàng lớn khác, điều đó sẽ tiếp tục kích thích tăng trưởng kinh tế ".
Theo Phạm Phương
Trí thức trẻ/Forbes 

 

Share:

Trang

Nổi bật

Giới siêu giàu kiếm tiền từ đâu?