Kiến thức chứng khoán - Kinh nghiệm đầu tư chứng khoán

Hiển thị các bài đăng có nhãn Israel. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Israel. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 9 tháng 9, 2016

Nhờ trí tuệ của người đàn ông Do Thái này, Israel đã từ một hoang mạc khô cằn thành thiên đường nông nghiệp

Nhắc đến nông nghiệp thì không thể không nói đến Israel, nói đến Israel thì không thể không nói đến giáo sư Daniel Hillel, người phát triển hệ thống tưới nhỏ giọt nổi tiếng thế giới.



>>Bí quyết lãnh đạo nào tạo nên thành công của người Do Thái? 

>>Vì sao người Do Thái thông minh nhất thế giới? 


Nếu nói về ngành nông nghiệp thế giới thì không thể không nói đến Israel khi quốc gia này trở thành nhà xuất khẩu nông nghiệp lớn trên thế giới trong khi vị trí địa lý không hề thích hợp cho nghề nông.

Tuy nhiên, nói đến nông nghiệp Israel thì không thể không nói đến nhà khoa học Daniel Hillel, người đã góp công lớn cho thành công này cũng như làm thay đổi tư tưởng về trồng trọt trên toàn thế giới.

Vào cuối thập niên 50, chuyên gia Hillel bắt đầu phát triển lý thuyết tưới nhỏ giọt trong lĩnh vực nông nghiệp. Theo đó, hệ thống tưới tiêu thay vì được sử dụng ồ ạt thì được điều chỉnh phủ hợp, từ tưới ít với lượng nhiều đến tưới nhiều lượng ít.

Bằng cách loại bỏ lượng nước dư thừa không hiệu quả trong tưới tiêu, phương pháp của ông Hillel giúp nông dân Israel dùng ít nước hơn nhưng lại cho hiệu suất cao hơn.

Thêm vào đó, việc những đường ống nhựa được phát minh vào thập niên 60 khiến cho quy trình thực hiện phương pháp tưới nhỏ giọt trở nên dễ dàng hơn cũng như ít tốn kém hơn.

Nhờ những cống hiến của mình, ông đã được trao thưởng giải “World Food Prize” năm 2012 cũng như trở thành giáo sư giảng dạy cho hàng loạt các trường đại học như Columbia, Massachusetts, Hebrew...

Ngoài ra, ông còn được mời cộng tác với nhiều tổ chức quốc tế như ngân hàng thế giới (World Bank), tổ chức nông lương quốc tế (FAO)...
Công trình của ông đã được ứng dụng rộng rãi tại Trung Đông và hiện đang lan ra nhiều khu vực khác như Châu Phi, Châu Á, Nam Mỹ hay Australia.

Với tình trạng môi trường ngày một ô nhiễm, thời tiết nóng lên và khí hậu ngày càng khắc nghiệt, công trình của giáo sư Hillel đang dần được phổ biến rộng rãi tại nhiều quốc gia. Không những thế, các nước còn cải tiến phương pháp tưới nhỏ giọt của chuyên gia Hillel, như sử dụng chất liệu ống tưới khác nhằm nâng cao hiệu quả tưới tiêu.

Tờ Wall Street Journal đã có bài phỏng vấn với giáo sư Hillel về công trình của ông cũng như những lo ngại về tình hình an ninh lương thực thế giới.


Giáo sư Daniel Hillel tại một trạm kiểm soát thủy lợi ở Israel
Giáo sư Daniel Hillel tại một trạm kiểm soát thủy lợi ở Israel

Một giấc mơ

WSJ: Điều gì đã truyền cảm hứng để ông đến với ngành nông nghiệp?

Giáo sư Hillel: Tôi sinh ra ở Los Angeles vào năm 1930 lúc cuộc Đại khủng hoảng kinh tế Mỹ bắt đầu. Sau đó, khi còn rất nhỏ, tôi cùng với gia đình chuyển đến Palestine, khu vực mà sau này trở thành nhà nước Israel.

Vào năm 9 tuổi, gia đình chúng tôi được chính phủ sắp xếp vào sống tại một khu tái định cư (kibbutz) và tôi nhanh chóng nhận ra từ thực tế rằng làm nông nghiệp trong điều kiện khô hạn ở Israel là một thử thách vô cùng khó khăn.

Tuy nhiên, cũng từ đây tôi bắt đầu có tình yêu với nông nghiệp, đất đai, trồng trọt, khí hậu. Tôi đã giữ tình yêu với nông nghiệp trong cả cuộc đời và nó trở thành niềm đam mê cũng như sự nghiệp của tôi. Quả thật, phát minh về hệ thống tưới nhỏ giọt là một món quà bất ngờ cũng như vô giá đối với tôi.

Tại thời điểm nào trong cuộc đời, ông chuyển sang tập trung nghiên cứu về phương pháp tưới nhỏ giọt?


Giáo sư Daniel Hillel
Giáo sư Daniel Hillel
Sau khi tôi tốt nghiệp trường đại học Hebrew vào cuối thập niên 50, tôi và các bạn của mình đã bắt đầu phát triển ý tưởng cải thiện hiệu quả sử dụng tài nguyên nước và đất trong nông nghiệp dưới điều kiện khí hậu khô hạn.

Quan điểm truyền thống của tưới tiêu trong nông nghiệp là dùng một lượng lớn nước làm ẩm đất, qua đó tạo điều kiện cho hạt mầm phát triển cũng như cung cấp dinh dưỡng cho cây. Tuy nhiên, chúng tôi nhận ra rằng phương pháp này khiến hạt mầm bị thừa nước khi mới tưới và dần thiếu nước trở lại cho đến khi người nông dân tưới thêm lần nữa, qua đó tốn quá nhiều nước.

Chúng tôi nhận ra rằng bằng việc tưới nhỏ giọt, chính xác tại nơi hạt mầm được gieo và với lượng nước vừa đủ, hạt mầm sẽ không lâm vào tình trạng thừa hay thiếu nước cũng như không bị ảnh hưởng tới quá trình phát triển.

Bằng cách này, hệ thống tưới tiêu sẽ được dùng bền vững hơn do lượng nước được sử dụng hiệu quả và người nông dân sẽ thu hoạch được nhiều hơn trên mỗi mét vuông trồng trọt.

Làm sao ông có thể phát triển từ một ý tưởng đơn giản thành một hệ thống lý thuyết và áp dụng chúng vào thực tế? Ông có gặp khó khăn nào không trong quá trình áp dụng hệ thống này?

Chúng tôi đã khá may mắn khi hệ thống ống nhựa được sản xuất đại trà với giá thành rẻ vào thập niên 60, qua đó giảm chi phí xây dựng hệ thống tưới tiêu nhỏ giọt.

Trước đó, hệ thống tưới nhỏ giọt chỉ có thể làm thủ công hoặc bằng những đường ống kim loại khá đắt đỏ cũng như thiếu sự chính xác trong tưới nước.

Hệ thống ống nhựa giúp người nông dân có thể tưới chính xác đến từng khu vực gieo hạt mầm với một lượng vừa phải, liên tục. Nhờ đó, chúng tôi có thể điều khiển bao nhiều nước là đủ cho hạt mầm tùy vào giai đoạn tăng trưởng của cây.


Sức mạnh của một giọt nước

WSJ: Làm thế nào mà hệ thống tưới nhỏ giọt của ông lại được phổ biến ra toàn thế giới?

Giáo sư Hillel: Hệ thống tưới nhỏ giọt được cấp bằng sáng chế cho hãng Simcha Blass, sau đó được áp dụng vào thực tế tại Israel trong thập niên 60. Kể từ đó, sự thành công của hệ thống này bắt đầu khiến chúng được toàn thế giới chú ý.

Trên thực tế, tôi cũng đã cộng tác với Liên hợp quốc (UN) và World Bank để phát triển hệ thống này tại hơn 30 quốc gia, bao gồm Jordan, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE), Palestine cũng như các nước tại châu Á và châu Phi.

Tại sao hệ thống tưới nhỏ giọt của ông ngày nay lại ngày càng được nhân rộng như vậy?

Chúng ta có thể dễ dàng thấy rằng hệ thống tưới nhỏ giọt đang được nhân rộng ra nhiều khu vực trên thế giới như Mỹ, Ấn Độ, Châu Phi... Tất cả những vùng trên đều có chung một vấn đề là nhu cầu tăng cường năng suất nông nghiệp do sự bùng nổ dân số và biến đổi khí hậu.

Hơn nữa, những quốc gia này đòi hỏi loại công nghệ có thể liên tục đổi mới, nâng cấp cũng như phục vụ được mọi loại cây trồng và thế là hệ thống tưới nhỏ giọt được áp dụng.

Chúng tôi đã thấy nhiều cải tiến trong việc sử dụng hệ thống này, như dùng năng lượng mặt trời để cung cấp điện cho hệ thống hay dùng vật lieuj mới, như gốm, để làm đường ống cho phù hợp điều kiện của từng vùng.

Ông có thể lấy ví dụ một quốc gia đã áp dụng thành công hệ thống tưới nhỏ giọt này không?

Theo tôi, Ai Cập là một ví dụ điển hình ngoài Israel đạt được thành công lớn với hệ thống tưới tiêu này. Đất nước này có dân số tăng trưởng nhanh và các nhà quản lý tại đây đã áp dụng thành công hệ thống tưới nhỏ giọt nhằm tăng cường năng suất nông nghiệp.


Giáo sư Daniel Hillel với những người nông dân trồng cam tại Jordan-Israel
Giáo sư Daniel Hillel với những người nông dân trồng cam tại Jordan-Israel
Tầm nhìn tương lai

WSJ: Theo ông, ngành nông nghiệp nói chung và hệ thống tưới tiêu nói riêng nên tập trung phát triển theo hướng nào trong tương lai?

Giáo sư Hillel: Theo tôi, thay vì chỉ kiểm soát tài nguyên đất, nước hoặc khoanh vùng khu vực trồng trọt, chính phủ các nước nên đặt trọng tâm vào toàn cảnh môi trường của quốc gia. Hệ thống tưới tiêu không chỉ là vấn đề đất hay nước mà còn có thể bao gồm những yếu tố như cường độ ánh nắng, sức gió, hay thậm chí giống cây trồng.

Chúng ta nên hạn chế khu vực sản xuất nông nghiệp và tăng cường quản lý năng suất hơn là mở rộng tràn lan nhưng hiệu quả kém. Với cách làm này, sản lượng nông nghiệp vẫn tốt trong khi chúng ta có thể bảo vệ được điều kiện tự nhiên môi trường và đa dạng sinh học.

Ông có cho rằng chính phủ các nước cần làm nhiều hơn để đưa vấn đề nông nghiệp và an ninh lương thực thành trọng tâm trong chương trình nghị sự?

Tôi tin rằng chính phủ các quốc gia cũng như các tổ chức quốc tế cần phải làm nhiều hơn nữa trong vấn đề này.

Rõ ràng, những nguy cơ và vấn đề trước mắt như khủng hoảng kinh tế đang khiến các nhà lãnh đạo mát sự tập trung đối với mối nguy dài hạn, đó là sự suy giảm điều kiện sống, sự đa dạng sinh học trong xã hội loài người do bị ảnh hưởng từ sự suy giảm tài nguyên cũng như biến đổi khí hậu.
Hoàng Nam

Share:

David Ben Gurion: Từ nhân viên bảo vệ đến người khai sinh ra đất nước Israel

Thủ tướng đầu tiên của Israel, ông David Ben-Gurion (1886-1973) được coi là một trong những nhà lãnh đạo Do Thái kiệt xuất của thế kỷ 20. Tầm nhìn sáng suốt của ông về sự đoàn kết của người Do Thái đã giúp thành lập nên nhà nước Israel. Không dừng lại ở đó, năng lực xuất chúng về chính trị, quân sự và kinh tế đã giúp nhà nước Do Thái non trẻ vượt qua được những năm đầu thử thách đầy khó khăn.


Tuy nhiên, sự nghiệp của Ben Gurion chứa đầy những cuộc xung đột, những sự kiện dữ dội trong lịch sử và cuộc đời ông hiện vẫn gây nên nhiều tranh cãi giữa các chuyên gia.

Tư tưởng phục quốc Do Thái

David Ben-Gurion với tên khai sinh là Gruen được sinh ra tại Plonsk-Ba Lan, lúc đó còn nằm dưới sự quản lý của Nga. Gia đình của ông Gurion là người Do Thái truyền thống và có quan điểm tích cực về việc thành lập lại một nhà nước, cộng đồng cho người Do Thái.
Trước sự hun đúc của người cha Avigdor Grun, một luật sư và là nhà lãnh đạo của phong trào Hovevei Zion, ông Ben Gurion đã có tư tưởng xây dựng nhà nước Do Thái từ rất sớm.

Năm 1906, Ben Gurion sang Palestine và đã từng làm nhiều nghề để mưu sinh, kể cả bảo vệ. Tuy nhiên, tư tưởng thành lập nhà nước Do Thái của ông chưa bao giờ thay đổi và hầu như ngay lập tức ông trở thành nhà lãnh đạo của Đảng Poalei Tzion, bao gồm những người Do Thái ủng hộ quan điểm trên.

Ông Ben Gurion (ngoài cùng bên trái) cùng cha, vợ và các con năm 1929
Ông Ben Gurion (ngoài cùng bên trái) cùng cha, vợ và các con năm 1929

Thời kỳ đó, Ben Gurion đã viết nhiều bài viết bảo vệ tư tưởng và quan điểm về việc thành lập nhà nước Do Thái cũng như xác định hệ tư tưởng Hebrew trong cộng đồng Do Thái cấp tiến. Đây là hành động mang ý nghĩa rất lớn khi các nước Phương Tây đang bị ảnh hưởng mạnh mẽ của Thiên Chúa giáo còn khu vực Trung Đông là sân nhà của Đạo Hồi.

Bằng những bài viết trên, Ben Gurion đã góp phần xác minh đường lối của người Do Thái cũng như tránh rủi ro bị đồng hóa, sáp nhập với các cộng đồng khác.

Khi chiến tranh thế giới thứ nhất diễn ra, ông bị mộ binh chiến đấu cho Đế quốc Ottoman, khi đó còn cai trị Palestine. Tuy nhiên, với tư tưởng tạo nên một nhà nước Do Thái độc lập, ông nhanh chóng chuyển sang chiến đấu cho quân đội Anh với hy vọng tìm kiếm giải pháp thành lập khu vực riêng cho cộng đồng trên.

Sau chiến tranh, Ben Gurion quay trở lại Palestine và nhanh chóng trở nên nổi tiếng trong cộng đồng người Do Thái tại đây.

Năm 1920, ông đã sáng lập nên chính đảng Ahdut ha-Avodah, tiền thân của Đảng Lao động Do Thái ngày nay và cũng là đảng đóng vai trò quan trọng trong việc phục quốc của người Do Thái. Nhờ hệ tư tưởng của Ben Gurion mà người Do Thái ngày nay không chỉ đững vững về chính trị, quân sự, kinh tế mà còn nổi tiếng về lòng tự hào dân tộc, quốc gia độc lập cũng như đức tính cần cù chăm chỉ.


Bản thân nhà lãnh đạo tài ba này coi tầng lớp lao động Do Thái là lãnh tụ tinh thần cho cuộc cách mạng phục quốc. Vào thời điểm đó, Đảng Lao động Do Thái được xây dựng còn với một mục đích là xây dựng nền kinh tế Do Thái dưới sự lãnh đạo của tầng lớp công nhân. Quan điểm của Ben Gurion khi đó là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa phục quốc Do Thái là 2 mặt của một tư tưởng thống nhất nhằm đi đến mục đích cuối cùng.

Thời kỳ rung chuyển

Ben-Gurion đã thấy giai cấp công nhân Do Thái như các tàu sân bay của tinh thần cách mạng này, và phù hợp với khẩu hiệu của ông, "Từ lớp học cho đất nước", thấy lợi ích của người lao động và người Do Thái như một toàn như giống nhau. Vai trò của Histadrut, khi nhìn thấy nó, là để xây dựng một nền kinh tế của người Do Thái dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân Do Thái.

Trong khoảng 1919-1946, nội bộ các nhà lãnh đạo phong trào phục quốc Do Thái bắt đầu có chia rẽ giữa đường lối cánh tả, cánh hữu và trung lập. Cùng với đó là sự sáp nhập của các đảng phái để thành lập chính đảng.

Ngoài ra, sự xung đột giữa cộng đồng người Ả Rập và người Do Thái lúc này cũng tăng cao. Dẫu vậy, chính Ben Gurion là người đã kêu gọi cộng đồng Do Thái kiềm chế và chỉ chống trả để tự vệ nhằm tránh một cuộc chiến tranh gây đổ máu.

Năm 1937, Ben Gurion ủng hộ quyết định phân chia khu vực sinh sống của cộng đồng Do Thái và Ả Rập tại Palestine nhằm hạn chế xung đột.


Vào thời kỳ đó, Ben Gurion cho rằng cộng đồng người Ả Rập tại Palestine đã được hưởng lợi từ sự tăng trưởng kinh tế, vốn đóng góp chủ yếu bởi người Do Thái. Ông cho rằng việc 2 bên hợp tác cùng phát triển sẽ đem lại lợi ích cho cả đôi bên. Tuy nhiên, Ben Gurion đã cố gắng và thất bại nhiều lần trong việc đạt thỏa thuận hòa bình với các nhà lãnh đạo Ả Rập.

Israel: Nhà nước của người Do Thái

Năm 1947, Hội đồng Liên hiệp quốc (UN) quyết định chính thức chia tách khu vực sống của cộng đồng Do Thái và Ả Rập tại Palestine. Đến khi quân đồng minh Anh rút lui khỏi đây, Ben Gurion đã có bước đi táo bạo khi quyết định thành lập nhà nước Israel trong bối cảnh rối ren.

Ngay sau đó, chiến tranh giữa cộng đồng người Ả Rập theo đạo Hồi với nhà nước Israel non trẻ nổ ra vào năm 1948. Cuộc chiến kéo dài hơn 9 tháng này đã kéo hàng loạt các nước tại Trung Đông tham gia, như Pakistan, Yemen, Sudan, Ả Rập Xê Út, Ai Cập... tham chiến với thắng lợi cuối cùng thuộc về người Do Thái.

Sự lãnh đạo tài tình của các tướng lĩnh cũng như của Ben Gurion đã giúp nhà nước Israel non trẻ đặt vững bước chân cho cộng đồng Do Thái.

Ông Ben Gurion cùng các tướng tĩnh trong cuộc chiến năm 1948
Ông Ben Gurion cùng các tướng tĩnh trong cuộc chiến năm 1948


Ông Ben Gurion tuyên bố thành laaoj nhà nước Israel năm 1947
Ông Ben Gurion tuyên bố thành laaoj nhà nước Israel năm 1947

Sau khi giành chiến thắng trong cuộc chiến với cộng đồng Ả Rập, Ben Gurion được bầu làm Thủ tướng đầu tiên của Israel với chiến thắng của Đảng Lao động trong cuộc bầu cử vào nghị viện năm 1949.

Kể từ đây, ông bắt đầu giữ chức Thủ tướng Israel cho đến năm 1963 và cống hiến cho Israel một nền chính trị, kinh tế ổn định.

Hàng loạt các công trình cơ sở hạ tầng, dự án phát triển kinh tế, giáo dục, xã hội, văn hóa được Ben Gurion thông qua. Trong đó, vấn đề hồi hương của người Do Thái (aliyah) được Ben Gurion đặc biệt quan tâm.

Tuy nhiên, điều đặc biệt nhất về tư tưởng điều hành của Ben Gurion thời kỳ này là ưu tiên lợi ích quốc gia lên trên hết. Điều này được phản ánh rõ ràng qua hệ thống giáo dục của Israel khi mọi học sinh, sinh viên đều được truyền thụ tinh thần yêu nước và tự hào dân tộc.

Một thành quả nổi bật nữa của Ben Gurion thời kỳ này là yêu cầu nước Đức thanh toán khoản bồi thường 715 triệu USD cho những nạn nhân Do Thái trong chiến tranh thế giới thứ II. Mặc dù quyết định này nhận được nhiều tranh cãi khi nước Đức thua trận, nhưng chính nhờ khoản bồi thường này mà kinh tế Israel có thêm nguồn hỗ trợ để phát triển.

Thủ tướng Israel Ben Gurion cùng Tổng thống Mỹ Harry Truman
Thủ tướng Israel Ben Gurion cùng Tổng thống Mỹ Harry Truman

Bên cạnh đó, Ben Gurion cũng tích cực mở rộng ngoại giao, tìm kiếm sự giúp đỡ từ nhiều nước như Mỹ nhằm củng cố hơn nữa vị thế của nhà nước Do Thái non trẻ. Thậm chí, Ben Gurion cho rằng việc Israel sở hữu được vũ khí hạt nhân là quân bài chiến lược nhằm răn đe các quốc gia thù địch và duy trì một chính phủ Israel ổn định.

Sau khi từ chức vào năm 1963, Ben Gurion vẫn tiếp tục có nhiều đóng góp cho Israel khi góp phần giúp đỡ những người định cư Do Thái hồi hương trở về từ những quốc gia khác. Thêm vào đó, ông còn có đóng góp không nhỏ vào việc phát triển nông nghiệp tại Israel, khiến quốc gia này tránh khỏi tình trạng đói nghèo và vươn lên trở thành điều thần kỳ tại Trung Đông.

Với những thành quả to lớn như vậy, dù còn nhiều tranh cãi về cuộc đời của ông nhưng Ben Gurion vẫn được tất cả người dân Israel tôn trọng, mến mộ như vị cha già góp phần xây dựng nên Israel.

Ông Ben Gurion năm 1952
Ông Ben Gurion năm 1952


Ông Ben Gurion năm 1972
Ông Ben Gurion năm 1972


Mộ của vợ chồng ông Ben Gurion tại Israel
Mộ của vợ chồng ông Ben Gurion tại Israel

Hoàng Nam
Theo Trí Thức Trẻ 


Share:

Thứ Ba, 22 tháng 3, 2016

Văn hóa khởi nghiệp của đất nước nhỏ bé Israel khiến cả thế giới phải ngả mũ kính nể

Với dân số chỉ hơn 8 triệu người, số lượng các công ty khởi nghiệp bình quân đầu người cao đã giúp Israel đứng ngang hàng với những hệ sinh thái khởi nghiệp hàng đầu thế giới.

Mặc dù quy mô khác nhau nhưng Israel “tự hào là nơi có tỷ lệ các công ty khởi nghiệp công nghệ cao tập trung trên đầu người nhiều nhất” với “gần 1.000 công ty mới được thành lập mỗi năm”.
Tốc độ tăng trưởng ấn tượng của các công ty công nghệ Israel là điều khiến nhà đầu tư và giới công nghệ chú ý.

Theo Geektime, 2015 là năm đột phá đối với quốc gia nhỏ bé ở khu vực Trung Đông này khi “tổng số lượng các công ty khởi nghiệp mới đã tăng lên 1.400, trong đó có 373 công ty huy động được 3,58 tỉ USD” và “69 công ty được bán với tổng giá trị 5,41 tỉ USD”.

Vậy bí quyết nào đã giúp đất nước nhỏ bé Israel đạt được kỳ tích "Quốc gia khởi nghiệp" như vậy?

Tìm ra những giải pháp sáng tạo để giải quyết vấn đề

Sáng tạo không phải là lãng phí thời gian để cải tiến những điều đã có mà thay vào đó cần phải bước ra khỏi vùng quen thuộc để tìm ra những ý tưởng và giải pháp độc đáo hơn.

Tại Israel, đây là điểm đặc thù của hầu hết những công ty khởi nghiệp đầy hứa hẹn, một vài trong số đó thậm chí còn tạo ra ấn tượng không kém Google và Facebook.

Ví dụ, startup Waze được thành lập bởi một người Israel đã tìm ra cách tiếp cận cộng đồng để giải quyết vấn nạn tắc đường. Thành công của Waze là thay vì chỉ tiếp cận tới những lái xe thông thường, họ tận dụng được cả sức mạnh của cả cộng đồng để giải quyết mối lo ngại phổ biến cho các lái xe trên toàn thế giới.

Waze hiện nhận được khoản đầu tư trị giá 1 tỉ USD của Google.

Không sợ thất bại

Người Israel không bao giờ lưỡng lự trước những quyết định và họ cũng không sợ công khai một sản phẩm dù nó chưa “hoàn hảo”.

Người Israel cũng không bận tâm tới những lời chỉ trích và quan trọng hơn họ không sợ thất bại. Đây là nét văn hóa táo bạo góp phần tạo nên hệ sinh thái khởi nghiệp độc đáo tại Israel.

Nét văn hóa không sợ thất bại luôn đi kèm với cụm từ "chutzpah" – tức là kiên trì làm một điều gì đó mà không bận tâm tới những gì người khác nghĩ và nói.

John Rampton - nhà sáng lập của Due đã ghé thăm thành phố Tel Aviv của Israel và nói rằng: “Tôi đã tham dự một trong những sự kiện khởi nghiệp lớn nhất tại Israel và chứng kiến rất nhiều nhà đầu tư Trung Quốc tới đây tham gia với tiêu chí: Các bạn có công nghệ, còn chúng tôi có tiền".

Hiện tại, văn hoá khởi nghiệp của Israel đang đổi mới với tốc độ nhanh hơn rất nhiều so với hầu hết các công ty công nghệ châu Á.

Quan tâm tới sự chuyên nghiệp thay vì lịch sự

Tại Israel, nếu không đồng tình với người giám sát hoặc cấp trên, bạn hoàn toàn có thể bày tỏ thẳng thắn quan điểm của mình và sau đó bỏ đi uống một thứ gì đó. Người Israel coi sự chuyên nghiệp quan trọng hơn rất nhiều so với phép lịch sự.

Nếu có lý do thuyết phục để tranh luận hoặc phản đối ông chủ của mình thì tại Israel, bạn không chỉ cần nói thẳng thắn điều này mà đây là việc được khuyến khích nên làm - xuất phát từ tư duy và cách tiếp cận vấn đề hoàn toàn tự do.

Đầu tư vào những người trẻ tuổi tiềm năng

Tại bất kỳ công ty khởi nghiệp công nghệ nào ở Israel đều có ít nhất một nhân viên từng tham gia đơn vị quân đội của chính phủ Israel.

Đó là nhờ quy định nhập ngũ khi 18 tuổi và phục vụ quân đội trong 2 năm (đối với cả nam và nữ) của chính phủ. Có rất nhiều đơn vị công nghệ trong quân đội và đây là nền tảng vững chắc chuẩn bị cho lớp trẻ Israel bước vào tương lai.

Ngoài ra, còn có rất nhiều trung tâm nghiên cứu và phát triển tại Israel bao gồm cả của Intel và Apple - đây là những nơi ươm mầm cho rất nhiều tài năng công nghệ.
Phương Linh
Theo Trí Thức Trẻ/Techinasia


Share:

Thứ Sáu, 8 tháng 1, 2016

Israel: Quốc gia khởi nghiệp đã trưởng thành

Ngành công nghệ ở Israel giờ đây đang bị cuốn đi bởi những nguồn vốn từ các nhà đầu tư Hoa Kỳ, châu Âu và Trung Quốc – những người muốn tìm kiếm lợi nhuận cao hơn so với các thương vụ ở Sillicon Valley.

http://www.blogchungkhoan.com/p/tu-van-dau-tu-chung-khoan.html
Vonetize là một công ty Israel chuyên cung cấp video theo yêu cầu của khách hàng ở châu Phi, châu Mỹ Latin và các thị trường mới nổi khác. Ra đời vào năm 2011 với 200.000 USD từ một nhà đầu tư, đến năm 2014 công ty này đã huy động được thêm 6 triệu USD và hiện nay theo như lời của tổng giám đốc Noam Josephides, họ “chưa muốn từ bỏ cuộc chơi”.
http://www.blogchungkhoan.com/p/tu-van-dau-tu-chung-khoan.html
Gần đây, Vonetize – cũng như nhiều công ty khởi nghiệp đầy tham vọng trong ngành công nghệ ở Israel khác – đang phải vật lộn để tập hợp thêm các nguồn vốn và tăng cường marketing nhằm chuyển từ giai đoạn khởi nghiệp sang giai đoạn mở rộng quy mô ra toàn cầu. Nhiều công ty, ngay khi có được cơ hội thích hợp, đã bán cho người trả giá cao nhất – thường là một công ty công nghệ của Mỹ hay một quỹ đầu tư nào đó – và chuyển sang làm thứ khác.

Tuy nhiên, ngành công nghệ ở Israel giờ đây đang bị cuốn đi bởi những nguồn vốn từ các nhà đầu tư Hoa Kỳ, châu Âu và Trung Quốc – những người muốn tìm kiếm lợi nhuận cao hơn so với các thương vụ ở Sillicon Valley. Nhờ thế, Vonetize có thêm nhiều lựa chọn: Để mở rộng ra khu vực Đông Nam Á và các thị trường mới khác, công ty này có thể kêu gọi thêm vốn từ các nhà đầu tư, hoặc tiến hành IPO (phát hành chứng khoán lần đầu trên thị trường) ở Tel Aviv, New York hoặc London.

Dù lựa chọn ra sao, công ty này cũng đang tiến đến một điểm mốc đầu tiên đó là đạt giá trị 5 tỷ USD. Josephides cho biết: “Chúng tôi muốn xây dựng một công ty lớn”.

Với thị trường nhỏ bé chỉ 8 triệu người, các doanh nhân ở Israel thường bán ngay công ty của mình khi được giá. Nhưng ngành công nghệ của đất nước này đã lớn mạnh và ngày càng nhiều công ty đang mở rộng và tuyển dụng hàng trăm nhân lực trong nước, đạt giá trị hơn 1 tỷ USD và được gọi là các công ty “Kỳ lân” (Unicorn).

Cú hích cho nền kinh tế

“Cho đến 5 năm trước, 99% các công ty Israel khi được hỏi “Chiến lược của bạn là gì?” đều sẽ trả lời “Bán”. Đó là nhận định của Josef Mandelbaum, CEO của Perion, một công ty quảng cáo kỹ thuật số được niêm yết ở Nasdaq đã tiến hành mua lại các công ty khác và giờ đây có khoảng 660 nhân viên trên toàn thế giới. Ông còn cho biết thêm: “Tôi không nghĩ có lý do gì khiến bạn không thể xây dựng một công ty lớn có trụ sở ở Israel. Và đó là điều tôi muốn làm”.

Sự gặt hái của các công ty mới với trị giá hơn 1 tỷ USD còn có ý nghĩa lớn hơn nhiều cho một nền kinh tế đang phải vật lộn với các vấn đề về nhân khẩu học và các rủi ro chính trị. Trong khi một số ngành khác đang chững lại, thì ngành công nghệ đang tạo được lực hút đầu tư và nguồn việc làm dồi dào. Theo thống kê chính thức, ngành này chiếm đến 18% GDP và hơn 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu của Israel.

Lý do khiến ngành công nghệ ở nước này mở rộng được là vì nó hiện hữu khá nhiều ở các ngành đang lên theo nhu cầu trên toàn thế giới: ứng dụng di động, phát triển web và đáng chú ý nhất là an ninh mạng.

Nổi bật trong lĩnh vực này là Check Point, một công ty được các cựu nhân viên tình báo Israel sáng lập. Đây là ví dụ tiêu biểu cho các công ty mới, và công ty này hiện vẫn là một trong những công ty lớn nhất ở Israel với giá trị vốn hóa trên thị trường là 14 tỷ USD.

Đối thủ của công ty này, Mobileye, cũng vừa nhận được khoản đầu tư 100 triệu USD từ Goldman Sachs và là công ty Israel đạt giá trị IPO lớn nhất ở Nasdaq khi bắt đầu lên sàn vào năm 2014. Hiện giá trị của nó là khoảng 8 tỷ USD. Các công ty khác có giá trị hơn 1 tỷ USD trong lĩnh vực này còn có thể kể đến CyberArk và Wix.com.

Sự thăng tiến của các công ty “Kỳ lân”

Hiện nay tại Israel đang có một thế hệ các doanh nhân làm giàu từ việc xây dựng các công ty lớn ở nước ngoài. Gadi Tirosh, giám đốc điều hành của Jerusalem Venture Partners, một quỹ đầu tư hàng đầu và là cổ đông của CyberArk, cho biết: “Chúng tôi hiện có 2 đến 3 vòng lặp những người Israel mở các công ty ở Mỹ, quay về Israel, lập ra hoặc gia nhập một công ty khác, và tiếp nhận kinh nghiệm chuyên môn này một cách hiệu quả”.

CyberArk là công ty khởi đầu cho xu hướng này. Được thành lập năm 1999, công ty này chuyển trụ sở đến Boston để cải tiến các sản phẩm và tìm kiếm khách hàng. Sau khi nhận được một số lời mời chào hấp dẫn, CyberArk đạt được một thỏa thuận cho phép nó tiếp tục phát triển độc lập: Jerusalem Venture Partners và Goldman Sachs mua lại cổ phần từ các nhà đầu tư, và công ty chính thức lên sàn chứng khoán vào năm 2014.

Tuy nhiên có một số lo ngại về giá trị của các công ty Israel trên các sàn chứng khoán ở Mỹ và Anh, với dẫn chứng là thất bại của các công ty như Modu, nhà sản xuất điện thoại di động đã ngừng hoạt động vào năm 2011, hay Betterplace, công ty sản xuất ô tô điện đã phá sản vào năm 2013. Bên cạnh đó là sự ảm đạm của thị trường chứng khoán toàn cầu. Nhưng các công ty ở Israel có vẻ vẫn dễ dàng tìm được các nguồn vốn cần thiết.

Sự thay đổi về công nghệ cũng cho phép ngành này phát triển ở thị trường nội địa. Theo Michael Eisenberg, một cộng sự ở quỹ đầu tư mạo hiểm Aleph: “Khoảng mười năm trước nếu muốn làm marketing và doanh số đạt đến quy mô mong muốn, bạn phải có mặt ở Mỹ hoặc một thị trường nào đó. Hiện nay với Internet marketing, bạn có thể đạt đến quy mô mong muốn mà không cần đi đâu cả nếu công ty của bạn vẫn chưa đủ lớn”. 

Vonetize đã nhanh chóng học được bài học này ngay từ khi mới thành lập. Công ty này hợp tác với Samsung vào năm 2012 để cung cấp dịch vụ của mình trên mọi thiết bị của Samsung bán ở Israel.
Tuy nhiên, ngành công nghệ ở Israel cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, trước hết là sự cạnh tranh khốc liệt từ Intel, Microsoft, Google và Facebook về vấn đề nhân sự. Theo ước tính, khoảng một nửa trong số 280.000 nhân lực công nghệ cao của nước này đang làm việc cho các công ty đa quốc gia.

Ngoài ra, các công ty cũng phàn nàn về sự phiền hà trong thủ tục khi tuyển dụng nhân viên có chất lượng từ các nước khác và ít nhất 14 công ty đã hợp lực để vận động hành lang nhằm cải thiện tình trạng này. Chính phủ Israel, vốn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của ngành công nghệ, nói rằng đang tiến hành những bước cần thiết để đáp ứng nhu cầu của cộng đồng doanh nghiệp cả về pháp chế lẫn tài chính.
Đinh Vân
Theo Trí Thức Trẻ/Ft
Share:

Thứ Năm, 22 tháng 10, 2015

Vì sao Israel là một trong những nơi tốt nhất thế giới để mở công ty ?

Giới đầu tư Israel tin rằng nếu không thông cảm với hàng loạt những thất bại này thì sẽ khó lòng đạt được sự đổi mới thật sự.


Ai mới đến Israel sẽ thấy người bản xứ thật thô lỗ. Người Israel sẽ không ngại ngần khỏi bạn bao nhiêu tuổi hay khoe căn nhà, xe họ đi giá bao nhiêu. Thậm chí người Israel còn nhận xét với những ông bố bà mẹ xa lạ gặp trên đường hay trong của hàng bách hóa rằng không cho con cái ăn mặc phù hợp với thời tiết. Những quan niệm về người Do Thái- hai người Do Thái, ba ý kiến là hoàn toàn chính xác với người Israel. Ai không thích sự thẳng thắn thái quá này sẽ không có thiện cảm với người Israel, nhưng người không câu nệ sẽ thấy thoải mái và xem đây là biểu hiện của sự chân thành.

Điều này còn đặc biệt thể hiện rõ trong cách người Israel gọi tên nhau. Joh Medved, một nhà đầu tư mạo hiểm và là doanh nhân Israel cho biết: “Bạn có thể hiểu được nhiều về bản chất một xã hội thông qua cách người dân gọi tên giới lãnh đạo của họ. Israel là nước duy nhất trên thế giới mà mọi nhân vật nắm quyền- bao gồm cả thủ tướng và các tướng lĩnh trong quân đội- đều được mọi người, kể cả dân chúng gọi bằng biệt hiệu”.

Cụ thể, biệt danh của thủ tướng Benjamin Netanyahu và Ariel Sharon lần lượt là “Bibi” và “Arik”. Một cựu lãnh đọa đản Lao động Binyamin Ben-Eliezer có biệt danh là “Faud”. Vị tham mưu trưởng trong quân đội Israel gần đây là Moshe Levi sở hữu biệt danh “Moshe VeHetzi” nghĩa là Moshe- và- một-nửa, do ông này cao đến 1,98 mét. Nhiều cựu tướng lĩnh khác trong lịch sử quân đội Israel cũng được đặt biệt danh như Rehavam “Gandhi” Zeevi, David “Davo” Elazar và Rafael “Raful” Eitan. Một nhà lãnh đạo nổi tiếng đảng Shinui, Yosef Lapid từng mang biệt danh “Tommy”. Người ta không ngại dùng công khai những cái tên đặc biệt này, thay vì chỉ nói sau lưng các vị quan chức. Điều này, theo lập luận của Medved, chính là đại diện cho mức độ thân mật trong các mối quan hệ của người dân Israel.

Thái độ và sự thân mật của người Israel còn được bắt nguồn từ nền văn hóa khoan dung mà người Israel gọi là “Thất bại có tính xây dựng”, hay “Thất bại thông minh”. Giới đầu tư Israel tin rằng nếu không thông cảm với hàng loạt những thất bại này thì sẽ khó lòng đạt được sự đổi mới thật sự. Trong quân sự Israel, xu hướng xem xét các hiểu hiện- dù thất bại hay thành công- trong huấn luyện, những lần tập trận mô phỏng, hay thậm chí ngay trên chiến trường đều mang giá trị trung lập. Miễn là rủi ro được giải quyết một cách thông minh và không bất cẩn thì người ta luôn học hỏi được điều gì đó.

Như giải thích của giảng viên trường Kinh doanh Harvard (HBS), ông Loren Gary, việc phân biệt rạch ròi giữa “một cuộc thử nghiệm được lên kế hoạch kỹ lưỡng và việc ăn may” là rất quan trọng. Ở Israel, sự phân biệt này càng thể hiện rõ trong lĩnh vực đào tạo quân đội. Một sĩ quan huấn luyện không quân cho biết: “Chúng tôi không cổ vũ quá mức khi bạn làm tốt, những cũng không giết chết bạn nếu chẳng may thất bại.

Thật vậy, một nghiên cứu của đại học Harvard cho thấy những doanh nhân từng thất bại sẽ có cơ may thành công cao hơn 20% ở lần khởi nghiệp tiếp theo của họ, đây là tỉ lệ cao hơn so với những người khởi nghiệp lần đầu và không quá thua kém so với những doanh nhân từng đạt được thành công trước đó. Trong cuốn Geography of Bliss (tạm dịch: Địa lý hạnh phúc), tác giả Eric Weiner miêu tả một quốc gia có lòng bao dung hơn với thất bại là quốc gia “của những người được tái sinh, nhưng không phải với ý nghĩa tôn giáo”.

Điều này càng tỏ ra đúng đắn trong chính sách luật bảo hộ phá sản và thành lập doanh nghiệp của Israel. Theo đó, nước này được xem là môi trường tốt nhất Trung Đông và là một trong những nơi tốt nhất thế giới để mở công ty mới, kể cả khi doanh nghiệp cũ của bạn bị phá sản. Điều này có thể hiểu rằng người Israel luôn không ngừng nỗ lực tìm kiếm cơ hội mới.

Bài viết có sử dụng thông tin tham khảo từ cuốn sách Quốc gia khởi nghiệp.
Theo Trí Thức Trẻ
Share:

Bài học xây dựng nền kinh tế từ Israel

Israel luôn đề cao tinh thần khởi nghiệp và một doanh nhân có thể lập nhiều doanh nghiệp (DN). Nhà nước Israel hỗ trợ cho tất cả những ý tưởng tốt, người ngoài 70 tuổi vẫn có thể lập nghiệp.

http://www.blogchungkhoan.com/2015/09/mo-tai-khoan-tu-van-au-tu-chung-khoan.html#.ViiJGW6fdFq

Kinh nghiệm của Israel là, đầu tiên nhà nước mở ra quỹ đầu tư cho các công ty khởi nghiệp, bởi các quỹ đầu tư rủi ro chỉ đầu tư vào các công ty đã hoạt động một thời gian. Sau khi DN vận hành được một thời gian, có thể tăng vốn bằng cách kêu gọi đầu tư từ các quỹ đầu tư khác.

Cách làm này giúp rủi ro từ các quỹ đầu tư giảm xuống còn 50% và Israel đã làm rất tốt việc này. Nếu Việt Nam không thể tạo được một quỹ đầu tư rủi ro 40 triệu USD từ ngân sách nhà nước, thì hãy kết hợp với tư nhân để làm.

Israel hỗ trợ khởi nghiệp nhiều công ty, nhưng không có những công ty thành công trên toàn cầu. Bởi vì những công ty tiềm năng này thường được mua lại và rất nhiều tài năng đã rời khỏi Israel. Suốt 15 năm qua, Israel không có một công ty nào trở thành công ty toàn cầu.

Các quỹ đầu tư rất sốt ruột trong việc phát triển các công ty, họ muốn bán nó và thu được lợi nhuận. Đó là hai vấn đề lớn của Israel. Việt Nam có thể tránh những sai lầm này.

Một điều nữa, ở Israel, các quỹ đầu tư rủi ro chủ yếu đầu tư vào các công ty công nghệ cao, công nghệ thông tin và khai thác nó giống như khai thác một "mỏ bạc". Đó là các mô hình của các quỹ đầu tư rủi ro tiến tới và họ trông đợi vào kết quả lợi nhuận chỉ khoảng 5 năm. Hiện, Israel đã khai thác gần hết "mỏ bạc" của mình, cần chuyển sang làm cái khác, nhưng các quỹ đầu tư thay đổi rất chậm.

GS. Shlomo Maital là Giám đốc Học thuật - Học viện Phát triển năng lực lãnh đạo và Điều hành Israel. 20 năm qua, ông là giáo sư thỉnh giảng Chương trình thạc sĩ khoa học quản trị công nghệ thuộc Học viện Công nghệ Massachusetts, Mỹ. Ông từng là Giám đốc Cơ quan Hoạch định kinh tế Quốc gia Israel.

Thế giới nghe nhiều về nền kinh tế sáng tạo và khởi nghiệp của Israel, nhưng mối quan hệ giữa năng lực cạnh tranh của một đất nước với việc phát triển một nền kinh tế trên cơ sở sáng tạo và khởi nghiệp cũng bộc lộ những vấn đề. Israel đang có 2 nền kinh tế: kinh tế sáng tạo công nghệ cao và công nghệ công nghiệp truyền thống.
Đó là "hai hành tinh" khác nhau và cũng là hai vấn đề lớn của Israel. Chính phủ Việt Nam cần có một nền công nghiệp mới, sáng tạo và công nghệ cao song cũng cần giúp nền công nghệ truyền thống phát triển.

Trong thế giới cạnh tranh ngày nay, không có công nghệ thấp, chỉ có quản trị tốt và quản trị không tốt. Việt Nam không chỉ là một quốc gia, mà còn là một thương hiệu. Việt Nam hãy sử dụng công nghệ cao cho tất cả các lĩnh vực, kể cả sản xuất quần áo, giày dép và thực phẩm. Việt Nam cũng có thể xây dựng nền ẩm thực thành công nghiệp ẩm thực hùng mạnh.

Nửa thế kỷ trước, hình ảnh của Nhật Bản gắn liền với những sản phẩm rẻ tiền và nhanh hỏng. Nhưng ngay sau đó, "Made in Japan" có nghĩa là công nghệ cao, sản phẩm chất lượng cao và mang lại giá trị lớn. Vì thế, hãy tự tin xây dựng thương hiệu Made in Vietnam, hãy tạo ra nền ẩm thực Made in Vietnam!

Một điều quan trọng nữa, nhiều quốc gia, kể cả Israel, đã bỏ qua DN nhỏ nhưng họ là tài nguyên tuyệt vời giúp kinh tế phát triển thịnh vượng. Các DN nhỏ thường thiếu công nghệ, thiếu tầm nhìn và thiếu vốn. Nhà nước có thể là đòn bẩy cho người dân khởi nghiệp, hỗ trợ để họ xây dựng thành công ty, mang lại lợi ích cho nền kinh tế.

Đất nước Israel được hình thành năm 1948, cũng vận hành các công ty điện, nước, luyện thép... theo mô hình DN nhà nước. Sau 30 năm, Israel chuyển mạnh sang tư nhân hóa các DN này. Tư nhân vay tiền của các ngân hàng để mua lại các công ty của nhà nước. Hiện, tất cả các lĩnh vực của Israel đều đã được tư nhân hóa, chỉ còn một số dịch vụ công là do nhà nước cung cấp.

Nhưng trong chuyển đổi mô hình kinh tế, Việt Nam đừng đưa DN nhà nước vào tay các tỷ phú, vì nếu làm như vậy, Việt Nam sẽ rất khó quay trở lại lý tưởng một nền kinh tế vì người dân. Việt Nam hãy tổ chức nền kinh tế thịnh vượng của tất cả mọi người, hãy trả đồng lương hợp lý cho người lao động, hãy xem xét thật cẩn thận về kế hoạch phát triển nền giáo dục cho thế hệ trẻ.
Doanh nhân Sài Gòn 

>> Bí mật nào phía sau đỉnh núi thành công của người Do Thái?

Share:

Thứ Tư, 16 tháng 9, 2015

Bí quyết lãnh đạo nào tạo nên thành công của người Do Thái?

Trong kinh thánh của người Do Thái, lãnh đạo là sự kết hợp của nhiều nhiệm vụ, khía cạnh, không có cá nhân duy nhất nào thể lãnh đạo người Do Thái.
Khi nhắc đến người Do Thái, ai cũng biết họ là những con người xuất chúng, giành được nhiều thành tựu đáng nể. Dân số người gốc Do Thái hiện có khoảng 13,8 triệu người (khoảng 0,19% dân số thế giới). Vào khoảng giữa thế kỷ IXX, 1/4 các nhà khoa học trên thế giới là người gốc Do Thái và tính đến năm 1978 hơn một nửa giải Nodel đều thuộc về những người con Do Thái.

Không chỉ trong khoa học, các doanh nhân gốc Do Thái cũng đóng góp lớn và thay đổi bộ mặt kinh tế thế giới. Họ có mặt trong nhiều lĩnh vực từ tài chính, mỹ phẩm, thực phẩm, bán lẻ, công nghệ, báo chí cho đến bất động sản. Một số tên tuổi doanh nhân gốc Do Thái nổi tiếng bạn có thể kể đến như George Soros, Larry Page, Sheldon Adelson, Larry Ellison, Sergey Brin,…

Vậy nghệ thuật lãnh đạo của người Do Thái có gì đặc biệt khiến họ thành công đến vậy? Sau đây là những nguyên tắc lãnh đạo của đặc trưng của họ.

Nguyên tắc 1: Lãnh đạo bắt đầu từ nhận trách nhiệm

Trong kinh thánh của người Do Thái, nhà tiên tri Exodus Moses lãnh đạo người Israel tìm về miền đất hứa cũng là biểu tượng cho nhà lãnh đạo đầy trách nhiệm. Khi ông thấy một người Ai Cập đánh 1 người Israel, ông can thiệp. Khi ông thấy 2 người Israel đánh nhau, ông can thiệp. Xuất thân của Moses vốn là một hoàng tử Ai Cập nên ông có thể tránh khỏi việc đối đầu này nhưng ông không làm thế. Moses từng nói: Khi tôi nhìn thấy điều sai trái, nếu không một ai được chuẩn bị để hành động, tôi sẽ làm điều đó.

Người Do Thái có 3 niềm tin lớn về nghệ thuật lãnh đạo gồm: Chúng ta tự do. Chúng ta có trách nhiệm. Và cùng nhau chúng ta có thể thay đổi thế giới.

Nguyên tắc 2: Không ai có thể lãnh đạo một mình

Người Do Thái tin rằng nghệ thuật lãnh đạo là nghệ thuật dẫn dắt của một nhóm nhà lãnh đạo. Chính vì vậy không có một phong cách lãnh đạo nào nhất định được chỉ ra trong Kinh thánh của người Do Thái. Xuyên suốt trong những câu chuyện của người Do Thái là sự tồn tại của 3 nhà lãnh đạo: Moses, Miriam và Aaron. Moses là bậc tiên tri, gần gũi với Chúa. Aaron gần gũi với người dân. Miriam lãnh đạo phụ nữ và chống lại hai người anh trai.

Trong kinh thánh cũng tốn tại 3 nhiệm vụ khác nhau trong nghệ thuật lãnh đạo gồm: Các vị vua, các nhà truyền đạo và các nhà hiền triết. Vua là nhà lãnh đạo chính trị. Nhà truyền đạo là người lãnh đạo tôn giáo. Hiền triết là người đưa ra tầm nhìn, có thể là nam hay nữ. Trong kinh thánh của người Do Thái, lãnh đạo là sự kết hợp của nhiều nhiệm vụ, khía cạnh, không có cá nhân duy nhất nào thể lãnh đạo người Do Thái.

Nguyên tắc 3: Lãnh đạo là về tương lai

Điều này nhấn mạnh vai trò của tầm nhìn. Để dẫn dắt được người Israel thoát khỏi chế độ nô lệ, tìm đến tự do, nhà tiên tri Moses nói rằng nhiệm vụ của ông là dẫn dắt mọi người đến vùng đất của sữa và mật ông. Thách thức đặt ra với Moses nhân đôi khi vừa phải thuyết phục người Ai cập để dân Israel ra đi vừa thuyết phục họ chấp nhận những rủi ro khi quyết định ra đi. Cuộc hành trình cùng với những bài học được ông ghi lại trong kinh Torah. Moses đặt vào đó tầm nhìn của mình vào một xã hội tốt đẹp cùng với những luật lệ để duy trì nó.

Moses đặt ra những nguyên tắc như quốc hội được tổ chức 7 năm một lần và tại đó kinh Torah được nhắc lại, nhắc nhở người dân Israel về sứ mệnh của mình.

Nguyên tắc 4: Những nhà lãnh đạo luôn phải học hỏi

Giáo dục là một trong những thứ quan trọng bậc nhất với người Do Thái. Và nhà lãnh đạo lại là những người càng phải học hỏi hơn bao giờ hết.

Nguyên tắc 5: Lãnh đạo nghĩa là tin vào những người bạn dẫn dắt

Trong kinh thánh người Do Thái kể về chuyện Moses từng nói về những người Israel rằng “Họ sẽ không tin con” với Chúa trời. Chúa đáp lại rằng: “Họ là những tín đồ nhưng cuối cùng chính con không tin tưởng họ.” Người Do Thái cũng kể lại rằng Chúa để lại dấu hiệu trừng phạt việc nghi ngờ người dân Israel lên Moses khi cánh tay ông bị bệnh phong. Một nhà lãnh đạo phải có niềm tin vào những con người mà anh ta dẫn dắt. Người Do Thái cho rằng: Hình thức cao nhất của lãnh đạo là giảng dạy.

Nguyên tắc 6: Lãnh đạo bao gồm cả sự nhạy cảm về thời điểm và tốc độ

Khi Moses cầu xin Chúa trời lựa chọn người kế nhiệm mình, ông luôn muốn tìm một người có thể đi trước mọi người nhưng không cách quá xa và dẫn dắt cộng đồng. Lãnh đạo là việc phải cân bằng giữa kiên nhẫn và không kiên nhẫn. Đi quá nhanh, bạn sẽ bỏ lại mọi người còn đi quá chậm mọi người sẽ không đi theo bạn nữa.
 Theo Trí Thức Trẻ

>> Chìa khóa thành công của Israel: Luôn hoài nghi và tranh cãi

Share:

Thứ Năm, 10 tháng 9, 2015

Chìa khóa thành công của Israel: Luôn hoài nghi và tranh cãi

Dadi Perlmutter - một nhân viên của Intel từng có thời gian làm việc tại Israel kể lại “cú sốc” của một đồng nghiệp khi chứng kiến văn hoá công sở của người Israel rất kỳ lạ như sau: “Khi thấy chúng tôi bước ra từ phòng họp, ai nấy đều đỏ bừng vì la hét, anh ấy hỏi tôi có chuyện gì vậy. Tôi trả lời, chẳng có gì cả. Chúng tôi đã đạt được một vài kết quả tốt đẹp”.

Hoá ra, loại tranh luận quyết liệt bị ghét cay ghét đắng trong văn hoá kinh doanh của các quốc gia khác lại là giải pháp tốt nhất để giải quyết một vấn đề với người Israel.

Một nhà đầu tư Mỹ có cơ hội làm việc cùng các doanh nghiệp Israel nói: "Nếu có thể dẹp bỏ cái tôi ban đầu, bạn sẽ tạo ra bầu không khí rất thoải mái. Trong các doanh nghiệp Israel hầu như không có hiện tượng nói xấu sau lưng. Bạn luôn biết mình đang đứng ở vị trí nào. Việc này cũng tránh mất thời gian cho những việc vô bổ khác".

Sau này khi nắm giữ vị trí Phó chủ tịch mảng điện toán đám mấy của Intel, Perlmutter đã khẳng định: “Mọi chuyện dễ dàng hơn ở Israel - nơi mà sự lịch thiệp không còn quan trọng. Người Israel không có văn hoá quá kỷ luật. Từ thủa sơ khai, chúng tôi đã được dạy phải luôn nghi ngờ cái có sẵn, phải luôn đặt câu hỏi, tranh luận về mọi vấn đề và phải luôn sáng tạo”.

Cuối cùng, ông kết luận rằng: “Quản lý 5 nhân viên người Israel luôn khó hơn 50 người Mỹ. Vì người Israel luôn thử thách bạn mọi lúc - bắt đầu bằng những câu hỏi như 'Tại sao ông lại là sếp của tôi, tại sao tôi không phải là sếp của ông?".

Trong quân đội Israel, binh sỹ được chia thành những người tư duy “Rosh gadol” (thái độ dám làm, dám chịu) - nghĩa đen là "đầu to" và những người triển khai thực hiện “rosh katan” - nghĩa đen là "đầu nhỏ".

Thái độ rosh katan bị xa lánh, nghĩa là tiếp nhận mệnh lệnh và lý giải mệnh lệnh càng hẹp càng tốt để tránh bị quy trách nhiệm hoặc phải làm thêm việc.

Cách tư duyrosh gadol là vẫn làm theo lệnh, nhưng theo cách tốt nhất có thể, vận dụng óc phán xét và đầu tư mọi nỗ lực cần thiết. Nó đề cao sự ứng biến hơn là kỷ luật, cũng như cách thức lãnh đạo hơn là tôn trọng cấp bậc.

Trong các đơn vị tinh nhuệ của quan đội Israel, mỗi ngày là một cuộc thí nghiệm. Và mỗi ngày đều kết thúc bằng một buổi họp căng thẳng khi mà mọi binh sỹ trong đơn vị - thuộc mọi cấp bậc cùng ngồi lại để phân tích ngày hôm đó, bất kể chuyện gì đang diễn ra trên chiến trường hay trên thế giới.
“Việc chất vấn nhau cũng quan trọng như luyện tập hay đánh trận thật”. Mỗi bài tập bay, bài tập mô phỏng và hành quân thực tế đều được xem như một hoạt động thí nghiệm “cần được kiểm tra và xem xét lại nhiều lần, tiếp nhận thông tin và chịu những cuộc tranh luận này r lửa. Đó là cách chúng tôi được đào tạo”.

Các buổi tranh luận nhóm không chỉ không kiềm chế mà còn để việc tự phê bình thành một phương tiện giúp mọi người - đồng đội, cấp dưới và chỉ huy - học hỏi từ những sai lầm. “Buổi chất vấn thường kéo dài 90 phút. Ai cũng tham gia. Nó rất cá nhân. Đây là trải nghiệm rất khắc nghiệt”. “Đối với những người bị tiêu diệt (trong lần tập trận mô phỏng), việc đó thật sự rất khó khăn. Nhưng với những người sống sót sau trận đấu - thậm chí trong những bài tập hàng ngày - phần khó khăn nhất tiếp theo chính là buổi chất vấn”.

Keinan từng là chỉ huy đội hình máy bay chiến đấu F-16 trong lực lượng không quân Israel. “Cách bạn giao tiếp và phân tích sự bất đồng giữa những quan điểm khác nhau về một sự kiện hay quyết định nào đó là một phần lớn trong văn hoá quân đội Israel. Đến nỗi việc chất vấn nhau là loại hình nghệ thuật mà bạn phải vượt qua. Trong trường huấn luyện bay và phi đội - có nhiều câu hỏi xoay quanh khả năng tự chất vấn và chất vấn người khác”.

Thanh minh cho quyết định sai lầm là điều không thể chấp nhận

“Biện minh cho điều bạn đã làm là một việc không phổ biến. Nếu mắc sai lầm, việc của bạn là nêu ra những gì đã học được từ chuyện đó. Không ai học được gì từ một kẻ bảo thủ. Và mục đích của buổi chất vấn cũng không dừng lại ở việc thừa nhận sai lầm.

Mục đích đơn giản là để mọi người hiểu sai lầm là điều chấp nhận được, vì nó là cơ hội để cải thiện năng lực của cả đội và của từng cá nhân. Việc chú trọng vào những bài học hữu ích, có tính ứng dụng thay vì tạo ra những học thuyết máy móc là điều đặc trưng trong quân đội Israel".

Không phải ngẫu nhiên mà quân đội - đặc biệt là các đơn vị tinh nhuệ thuộc không quân, bộ binh, tình báo và công nghệ thông tin - đã đóng vai trò là vườn ươm cho hàng ngàn doanh nhân khởi nghiệp công nghệ cao của Israel. Có thể nói, nền kinh tế Israel được hưởng lợi từ hiện tượng tư duy “rosh gadol” cùng khả năng phán xét cực đoan thay vì tiêu chuẩn hoá để tạo ra cơn chấn động tầm cỡ quốc gia và cả thế giới.

* (Nhiều nội dung trong bài viết này được trích dẫn từ cuốn sách Quốc gia khởi nghiệp).

Theo Trí Thức Trẻ 


Share:

Trang

Nổi bật

Giới siêu giàu kiếm tiền từ đâu?