Với
đà phát triển mới của thị trường, dư địa hoạt động cho khối này đang
rộng mở. Tuy nhiên, UBCK cũng chủ trương tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa hoạt
động tái cấu trúc khối này, để tạo nền tảng vững chắc cho TTCK phát
triển.
Nhìn lại
hơn 15 năm hoạt động các CTCK, ông đánh giá như thế nào về sự phát triển
cũng như những đóng góp của các DN này với TTCK?
Các CTCK đã có sự phát triển vượt bậc cả
về số lượng và chất lượng. Khối này cũng đóng vai trò rất quan trọng
đối với sự phát triển chung của TTCK Việt Nam trong 15 năm qua.
Ngày đầu khai trương hoạt động TTCK,
Việt Nam chỉ có 7 CTCK với quy mô vốn điều lệ từ 6 tỷ đồng tới 43 tỷ
đồng. Ở thời điểm đó, ít người có thể nghĩ đến việc chỉ 15 năm sau,
chúng ta có đã tới 105 CTCK, trong đó có CTCK có vốn điều lệ trên 4.800
tỷ đồng. Giai đoạn đầu của thị trường, tất nhiên là cũng có những đau
thương và có CTCK đã phải trả giá bằng thua lỗ, nhưng điểm tích cực nhất
là trong thời gian qua, phần lớn CTCK đã thực hiện tái cấu trúc rất
mạnh mẽ, toàn diện.
"Chỉ sau 3 năm thực hiện tái cấu trúc, số lượng CTCK đã giảm được 24 đơn vị, tương đương tỷ lệ 23%, từ mức 105 CTCK về 81 CTCK, trong đó 8 CTCK thực hiện hợp nhất, sáp nhập. Các CTCK còn lại về cơ bản đều đáp ứng được yêu cầu về tỷ lệ an toàn tài chính. Ngoài ra, UBCK cũng đã thực hiện kiểm tra, giám sát thường xuyên và phân loại, rút giấy phép, đình chỉ hoạt động hoặc rút môi giới các CTCK yếu còn lại, để tránh gây ảnh hưởng đến an toàn hoạt động thị trường".
Tính tới thời điểm hiện nay, có khoảng
trên 80 CTCK còn hoạt động bình thường, nhiều CTCK đã xây dựng được nền
tảng hoạt động rất tốt, từ đội ngũ nhân sự chất lượng, quy mô hoạt động,
các mảng dịch vụ đến quy mô tài chính, năng lực quản trị rủi ro…
Về đóng góp cho TTCK, tôi tin rằng, các
CTCK đã làm tốt vai trò của mình là tổ chức trung gian thúc đẩy việc
việc dẫn vốn và luân chuyển vốn trong nền kinh tế, thu hút vốn đầu tư
trong nước và nước ngoài.
Còn nhớ giai đoạn đầu thị trường mới
hoạt động, các CTCK đã phải gõ cửa từng DN, giải thích cho họ hiểu hiệu
quả của việc minh bạch hóa và khả năng huy động vốn, tăng trưởng sau
niêm yết… để thuyết phục lãnh đạo DN đồng ý niêm yết. Các CTCK cũng đã
có vai trò không nhỏ trong việc nâng cao kiến thức, mở rộng cơ sở NĐT
trong nước. Đây là hoạt động để tăng khả năng cạnh tranh của CTCK, nhưng
lại góp phần không nhỏ tới sự phát triển của thị trường.
Ngoài ra, việc tổ chức hội thảo, gặp gỡ
NĐT nước ngoài để thu hút NĐT quốc tế mở tài khoản cũng giúp TTCK đến
gần hơn với NĐT thế giới, thúc đẩy huy động vốn đầu tư gián tiếp nước
ngoài vào Việt Nam. Năm 2000, toàn thị trường có gần 8.000 NĐT mở tại
các CTCK, đến 30/9/2015 con số này đã gần 1,5 triệu tài khoản; trong đó
có hơn 17.505 tài khoản NĐT nước ngoài. Tôi nghĩ rằng, đây là những đóng
góp rất thầm lặng, nhưng hiệu quả của các CTCK.
Ngoài đóng góp về mở rộng và nâng cao
chất lượng cơ sở NĐT cũng như thu hút DN niêm yết, mảng tư vấn hỗ trợ
phát hành và bảo lãnh phát hành cho các công ty niêm yết, công ty đại
chúng của CTCK thời gian qua cũng liên tục được đạt được nhiều kết quả.
Trong số hàng trăm nghìn tỷ đồng các DN niêm yết huy động được thời gian
qua, CTCK đóng vai trò không nhỏ tạo nên thành công này, với nhiều
thương vụ bảo lãnh phát hành có giá trị lên tới hàng trăm tỷ đồng.
Sau 3 năm thực hiện tái cấu trúc các CTCK, ông đánh giá như thế nào về kết quả tái cấu trúc mà CTCK đã đạt được?
Đến thời điểm hiện nay, việc triển khai
thực hiện Đề án Tái cấu trúc TTCK và DN bảo hiểm đã được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt theo Quyết định số 1826 ngày 6/12/2012 về cơ bản đã đạt
được mục tiêu đề ra. Trong đó, yêu cầu với các CTCK bao gồm nâng cao
chất lượng hoạt động, năng lực tài chính, quản trị DN và khả năng kiểm
soát rủi ro của các tổ chức kinh doanh chứng khoán.
Chỉ sau 3 năm thực hiện tái cấu trúc, số
lượng CTCK đã giảm được 24 đơn vị, tương đương tỷ lệ 23%, từ mức 105
CTCK về 81 CTCK, trong đó 8 CTCK thực hiện hợp nhất, sáp nhập. Các CTCK
còn lại về cơ bản đều đáp ứng được yêu cầu về tỷ lệ an toàn tài chính.
Ngoài ra, UBCK cũng đã thực hiện kiểm tra, giám sát thường xuyên và phân
loại, rút giấy phép, đình chỉ hoạt động hoặc rút môi giới các CTCK yếu
còn lại, để tránh gây ảnh hưởng đến an toàn hoạt động thị trường.
Về chất lượng tài sản và hiệu quả hoạt
động, trong 3 năm qua, thanh khoản các CTCK đã được cải thiện hơn rất
nhiều, hầu hết các CTCK đã thực hiện cơ cấu danh mục đầu tư, giảm dần
các khoản đầu tư có rủi ro cao, giảm dần giá trị đầu tư để đảm bảo tỷ lệ
đầu tư theo đúng quy định.
Năm 2011, TTCK có khoảng 20 CTCK có tỷ
lệ đầu tư vào trái phiếu, góp vốn chiếm hơn 70% vốn chủ sở hữu, đến thời
điểm 30/9/2015, chỉ còn dưới 10 CTCK. Hầu hết đây là những khoản đầu tư
phát sinh từ trước thời điểm Thông tư 210/2012/TT-BTC có hiệu lực. Đặc
biệt, các quy định hiện thời cũng giúp CTCK phân loại chính xác bản chất
tài sản, nhất là các khoản phải thu, tạo điều kiện cho khoanh vùng xử
lý nợ xấu. Phần lớn nợ xấu CTCK đã được xử lý trong quá trình tái cấu
trúc.
Các CTCK này cũng đã đầu tư mạnh hơn về
hạ tầng công nghệ thông tin, nâng cao chất lượng dịch vụ và đặc biệt là
đã xây dựng được quy trình quản trị rủi ro. Theo tôi, việc các CTCK nhận
thức được việc phải tự phòng ngừa rủi ro cho mình và khách hàng, nâng
cao ý thức trách nhiệm với yêu cầu này chính là một trong những yếu tố
quan trọng giúp TTCK phát triển bền vững trong tương lai.
Cùng với sự cải tổ mạnh mẽ về chất lượng
và số lượng các CTCK, hiệu quả kinh doanh các CTCK cũng tăng mạnh thời
gian qua. Năm 2011, toàn thị trường chỉ có 40 CTCK có lãi, với mức lãi
đạt được là 1.319 tỷ đồng, đến năm 2014, số công ty có lãi đã tăng lên
mức 55 công ty, với mức lãi là 2.523 tỷ đồng. 9 tháng đầu năm nay, tình
hình thị trường dù được nhận xét là khó khăn hơn, nhưng vẫn có 51 CTCK
báo lãi, với mức lãi là 2.049 tỷ đồng; 31 CTCK báo lỗ, nhưng quy mô đã
nhỏ đi rất nhiều, xấp xỉ 297 tỷ đồng.
Ngoài hiệu quả kinh doanh cải thiện,
chất lượng nguồn thu các CTCK cũng là một điểm đáng tự hào của quá trình
tái cấu trúc, cho thấy mức độ ổn định và an toàn hoạt động CTCK. Thay
vì tập trung quá nhiều cho hoạt động tự doanh, tỷ trọng doanh thu từ
hoạt động môi giới CTCK đã tăng nhanh qua các năm, chiếm 20,7% tổng
doanh thu 9 tháng đầu năm 2015. Các mảng doanh thu dịch vụ khác chủ yếu
là dịch vụ tư vấn, cho vay ký quỹ đã tăng mạnh, hoạt động tự doanh giảm
về mức xấp xỉ 17,7%.
Ông có thể chia sẻ định hướng của UBCK trong việc tái cấu trúc CTCK giai đoạn tới đây?
Mặc dù đã đạt được những thành tựu rất
ấn tượng sau quá trình tái cơ cấu, nhưng UBCK xác định, việc tái cấu
trúc vẫn phải tiếp tục được thực hiện nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng
hoạt động các CTCK.
Việc cơ cấu lại CTCK giai đoạn tới sẽ
thực hiện theo hướng phân loại và nâng cao chất lượng dịch vụ chứng
khoán; nâng cao năng lực tài chính, quản trị công ty, quản trị rủi ro;
hoàn thiện và triển khai giám sát hoạt động các tổ chức kinh doanh chứng
khoán theo phân loại; nghiên cứu ban hành các chuẩn mực kế toán về công
cụ tài chính, giá trị hợp lý tiếp cận với chuẩn mực báo cáo tài chính
quốc tế (IFRS) theo lộ trình hợp lý; cho phép NĐT nước ngoài sở hữu các
tổ chức kinh doanh theo các cam kết WTO, khuyến khích các tổ chức tài
chính quốc tế có uy tín tham gia...
Hiện tại, khung pháp lý cho việc thực
hiện tổ chức hoạt động, phân loại CTCK; kiểm tra, giám sát và tái cấu
trúc CTCK đã hoàn thiện. Đây là thuận lợi rất lớn cho tái cấu CTCK và
tôi kỳ vọng việc tái cấu trúc sẽ đạt được kết quả tốt hơn nữa trong thời
gian tới.
Có ý kiến cho rằng, UBCK
đang đẩy mạnh tái cấu trúc khối CTCK bằng cách nâng cao tiêu chí hoạt
động và triển khai các nghiệp vụ mới. Ông nghĩ sao về nhận định này?
Hiện nay, UBCK đã và đang lấy ý kiến các
thành viên thị trường về dự thảo Thông tư sửa đổi Thông tư 74 về giao
dịch chứng khoán. Theo dự thảo thông tư này, UBCK hiện đang xem xét việc
cho phép triển khai một số nghiệp vụ như cho phép rút ngắn thời gian
thanh toán xuống T+2, giao dịch trong ngày, bán chứng khoán đang chờ về…
và đã nhận được ý kiến góp ý của các thành viên, đặc biệt các vấn đề
liên quan đến điều kiện triển khai.
Tiếp thu các ý kiến đóng góp này, UBCK
đã xem xét điều chỉnh thời gian áp dụng nhằm đảm bảo sự an toàn trong
hoạt động của toàn hệ thống. Theo dự kiến, việc cho phép rút ngắn thời
gian thanh toán xuống T+2 sẽ được tiến hành thực hiện trong năm 2016, và
giao dịch trong ngày, bán chứng khoán đang chờ về sẽ xem xét thời gian
thích hợp để triển khai bởi các nghiệp vụ này đòi hỏi các tổ chức kinh
doanh chứng khoán phải đáp ứng được các yêu cầu về năng lực tài chính,
quản trị rủi ro, nâng cấp hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin.
Việc xem xét điều chỉnh thời gian áp
dụng này là một bước hỗ trợ cho các tổ chức kinh doanh chứng khoán vừa
và nhỏ có thời gian chuẩn bị đảm bảo thích nghi đáp ứng với các điều
kiện đặt ra để có thể theo kịp việc và triển khai được các hoạt động nêu
trên.
Một vấn đề các CTCK rất quan
tâm là làm sao đa dạng hóa nghiệp vụ kinh doanh, tạo ra sân chơi lớn
hơn cho các DN trong ngành. Ở góc độ cơ quan quản lý, UBCK có định hướng
thế nào về việc mở thêm các nghiệp vụ mới trong lĩnh vực chứng khoán?
Như trên đã nói, hiện nay, UBCK đang
nghiên cứu xây dựng dự thảo và trình Bộ Tài chính ban hành một số văn
bản hướng dẫn triển khai nghiệp vụ, sản phẩm mới nhằm tăng tính thanh
khoản cho thị trường. Tôi hy vọng, việc triển khai các hoạt động nghiệp
vụ nói trên sẽ cho phép gia tăng tính thanh khoản của thị trường, đồng
thời cũng quản lý, giám sát được các hoạt động của CTCK thông qua cơ chế
báo cáo và quy trình kiểm soát, quản trị rủi ro.
Đối với hoạt động của TTCK phái sinh,
UBCK đã thực hiện nghiên cứu và đang được triển khai thực hiện để có thể
chính thức đi vào hoạt động trong năm tới. Tuy nhiên, do TTCK Việt Nam
mới hình thành hơn 15 năm, trình độ phát triển chưa thực sự cao, nên
việc hình thành các sản phẩm phái sinh cũng còn hạn chế. Vì vậy, UBCK đã
phối hợp với các sở GDCK để nghiên cứu đề án xây dựng thị trường phái
sinh và xây dựng khung pháp lý cho vận hành của thị trường này.
Ngoài các chính sách mới về cơ chế giao
dịch và sản phẩm mới, UBCK cũng đã trình Bộ Tài chính ký ban hành các
thông tư về tiêu chí giám sát hoạt động của các CTCK, công ty quản lý
quỹ và Thông số 123/2015/TT-BTC hướng dẫn về hoạt động đầu tư nước ngoài
trên TTCK Việt Nam.
Khi có văn bản hướng dẫn về tỷ lệ tham
gia của NĐT nước ngoài vào TTCK Việt Nam sẽ cho phép gia tăng tỷ lệ sở
hữu nước ngoài trên vốn điều lệ (thay cho tổng số cổ phiếu niêm yết như
trước đây), đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát hành và niêm
yết của các DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) trên TTCK Việt Nam, dư
địa hoạt động cho các CTCK cũng có thể sẽ được tiếp tục cải thiện.