Kiến thức chứng khoán - Kinh nghiệm đầu tư chứng khoán

Hiển thị các bài đăng có nhãn tâm lý học. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn tâm lý học. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 16 tháng 12, 2016

Sau 40 năm nghiên cứu, các GS ĐH Stanford kết luận: Không thông minh, không chăm chỉ, cũng chẳng may mắn vẫn thành công!

Không phải chăm chỉ, không phải thông minh cũng không phải may mắn, khả năng kiểm soát sự thoả mãn của bản thân sẽ là yếu tố xác định bạn có thành công hay không.

Vào những năm 60 của thế kỉ 20, một giáo sư tại trường đại học Stanford là Walter Mischel bắt đầu thực hiện một loạt những nghiên cứu tâm lý học quan trọng.

Trong thử nghiệm của mình, Mischel cùng nhóm nghiên cứu đã thử nghiệm hàng trăm trẻ em khác nhau, phần lớn trong độ tuổi từ 4 đến 5. Nhóm nghiên cứu phát hiện ra một thứ mà giờ đây trở thành yếu tố rất quan trọng để thành công trong sức khoẻ, công việc và cuộc sống.

Hãy nhìn lại những gì đã xảy ra, và quan trọng hơn là nó giúp gì được cho bạn.

Thí nghiệm kẹo dẻo

Thí nghiệm này bắt đầu với việc đưa từng đứa trẻ một tới một phòng riêng, yêu cầu chúng ngồi lên ghế và sau đó để kẹo dẻo trên bàn phía trước mặt lũ trẻ.


Sau đó, các nhà thí nghiệm đưa ra một đề nghị với đứa trẻ. Họ nói rằng họ sẽ để kẹo dẻo trên bàn và đi ra khỏi phòng, nếu đứa trẻ không ăn kẹo dẻo, chúng sẽ nhận được thêm một cái nữa. Thế nhưng, nếu như đứa trẻ ăn chiếc kẹo này trước khi nghiên cứu viên quay lại, chúng sẽ không được cho thêm kẹo nữa.

Lựa chọn rất đơn giản, ăn 1 cái ngay bây giờ hoặc 2 cái nếu biết chờ.

Nhà nghiên cứu rời căn phòng trong 15 phút.

Như bạn có thể tưởng tượng, viễn cảnh một nhóc tì ngồi trong phòng khá thú vị. Một số đứa nhảy lồng lên và ăn ngay chiếc kẹo dẹo khi nhà nghiên cứu vừa ra khỏi phòng. Một số khác đung đưa và nhún nhảy trên thế để kiềm chế bản thân, nhưng rồi thất bại vài phút sau. Trong khi đó, có một số ít chờ đợi được tới cuối mà không ăn kẹo.

9 sắc thái của đứa trẻ trước khi chấp nhận từ bỏ và ăn kẹo.
9 sắc thái của đứa trẻ trước khi chấp nhận từ bỏ và ăn kẹo.

Được công bố vào năm 1972, nghiên cứu trên được gọi là Thí nghiệm kẹo dẻo, nhưng không vì món đồ ngọt kia mà thí nghiệm này nổi tiếng, phần thú vị tới sau đó vài năm.

Sức mạnh của sự thoả mãn bị trì hoãn

Vài năm qua đi, lũ trẻ lớn lên, các nhà khoa học tiếp tục theo dấu chân của chúng và thống kê theo nhiều lĩnh vực khác nhau. Những gì họ tìm thấy khiến mọi người bất ngờ.

Những đứa trẻ chấp nhận trì hoãn sự thoả mãn của bản thân và chờ đợi để có chiếc kẹo thứ 2, chúng đều đạt điểm thi SAT cao hơn, ít lạm dụng chất kích thích hơn, khả năng bị béo phì thấp hơn, xử lý stress tốt hơn, kĩ năng xã hội tốt hơn và có điểm số cao hơn trong bất kì lĩnh vực nào của cuộc sống.

Và nhóm nghiên cứu tiếp tục theo chân những đứa trẻ ngày nào tới khi họ 40 tuổi, một lần nữa nhóm chờ đợi để có 2 chiếc kẹo thành công trong nhiều lĩnh vực. Nói theo một cách khác, những thử nghiệm trên cho thấy trì hoãn sự thoả mãn là một yếu tố quan trọng của thành công trong cuộc sống.

Nghe có vẻ lạ tai, nhưng nếu bạn chú ý, bạn sẽ thấy ví dụ của nó ở khắp mọi nơi.

Giả sử bạn trì hoãn cảm giác thoả mãn khi được xem TV và thay vào đó bạn làm bài tập, sau đó bạn sẽ học tốt hơn và có điểm số cao hơn. Nếu như bạn trì hoãn cảm giác thoả mãn khi ăn đồ ăn vặt, bạn sẽ có thực đơn lành mạnh hơn khi về nhà. Nếu bạn trì hoãn cảm giác thoả mãn nghỉ ngơi sớm, tiếp tục tập luyện thêm vài lần, bạn sẽ khoẻ mạnh hơn... rất nhiều ví dụ khác nữa.

Thành công thường tới từ việc chọn lựa giữa sự quy củ với những thứ xao nhãng. Và đây là tất cả những gì trì hoãn sự thoả mãn nhắm đến.

Giờ đây, có thể một số người sẽ thắc mắc rằng: Liệu những đứa trẻ chờ đợi kia có khả năng kiểm soát bản thân tốt hơn? và đây mới là thứ hình thành nên thành công? Hay chúng ta có thể phát triển kĩ năng này?

Thứ gì xác định khả năng trì hoãn sự thoả mãn của mỗi người?

Các nhà nghiên cứu tại đại học Rochester đã quyết định "nhái" lại thí nghiệm kẹo dẻo ngày nào, những với một thay đổi quan trọng.
Trước khi mời bọn trẻ kẹo, các nhà khoa học chia lũ trẻ thành 2 nhóm.

Nhóm đầu tiên được thử với những trải nghiệm không đáng tin cậy. Ví dụ như nhà nghiên cứu đưa cho đứa bé một hộp màu và hứa sẽ mang hộp to hơn tới cho chúng, nhưng họ không bao giờ thực hiện.
Trong khi đó, nhóm thứ hai được thử với những trải nghiệm tin cậy hơn khi những thứ nhà nghiên cứu hứa đều thành hiện thực.

Bạn có thể tưởng tượng được phần nào ảnh hưởng của hành động trên với thí nghiệm kẹo dẻo. Những đứa trẻ trong nhóm không đáng tin chẳng có lý do gì để chờ đợi rằng mình sẽ được 2 cái kẹo, vì lý do đó chúng ăn ngay mà không cần suy nghĩ.

Trong khi đó, những đứa trẻ ở nhóm 2 đã thay đổi suy nghĩ để thấy rằng kiềm chế, trì hoãn được sự thoả mãn là thứ tốt. Mỗi khi nhà nghiên cứu hứa một thứ gì đó và rồi thực hiện, não bộ đứa trẻ sẽ có 2 suy nghĩ: 1 - chờ đợi sự rất xứng đáng, 2 - tôi có khả năng chờ. Kết quả cuối cùng, nhóm 2 chờ lâu gấp 4 lần nhóm 1.

Nói theo cách khác, khả năng trì hoãn sự thoả mãn và thể hiện khả năng kiểm soát bản thân không phải là dấu hiệu quyết định, mà chúng có ảnh hưởng lớn bởi những trải nghiệm và môi trường xung quanh. Thực tế là, những tác động của môi trường gần như tức thì. Chỉ một vài phút nhận định hay có những trải nghiệm không đáng tin đã đủ để đẩy hành động của lũ trẻ sang một hướng đi khác.

Vậy chúng ta có thể học được gì từ điều này?

Làm thế nào để trì hoãn sự thoả mãn giỏi hơn?

Trước khi vào vấn đề, hãy hiểu rõ điều này: vì lý do này hay khác, thí nghiệm kẹo dẻo đã trở nên rất nổi tiếng. Bạn có thể tìm thấy tư liệu về nó tại rất nhiều nguồn khác nhau. Thế nhưng, thí nghiệm nói trên chỉ là một mớ dữ liệu, một góc nhìn nhỏ vào câu chuyện lớn, câu chuyện hành công. Cách thức ứng xử của con người (và cuộc sống) rắc rối hơn rất nhiều, thế nhưng đừng lừa mình rằng chỉ với một lựa chọn mà đứa bé 4 tuổi làm có thể thay đổi cuộc đời chúng.
Thế nhưng...

Nghiên cứu trên đã làm sáng tỏ một điều: Nếu bạn muốn thành công ở lĩnh vực nào đó, tới thời điểm bạn sẽ phải tìm khả năng kỉ luật và hành động thay vì xao nhãng bởi công việc đồng thời làm những thứ dễ dàng hơn. Thành công trong bất kì lĩnh vực nào yêu cầu bạn phải bỏ đi những thứ dễ dàng để có thể gặt hái được thứ to lớn.

Hay ở chỗ, nếu bạn không thấy mình giỏi kiểm soát sự thoả mãn bây giờ, bạn có thể luyện tập để giỏi hơn bằng cách thực hiện một vài bước cải thiện nhỏ. Trong ví dụ của lũ trẻ, điều này đồng nghĩa với việc chọn lựa những môi trường đáng tin cậy khi mà các nhà nghiên cứu hứa hẹn và rồi thực hiện nó.

Chúng ta có thể làm điều tương tự. Chúng ta có thể rèn luyện khả năng kìm hãm sự thoả mãn, cũng giống như cách chúng ta tập cơ bắp ở phòng gym. Và bạn có thể làm điều đó tương tự như cách mà những đứa trẻ cùng các nhà nghiên cứu đã làm: Hứa một thứ gì đó nhỏ và rồi thực hiện nó. Một khi bạn làm đủ, não sẽ nói với bạn rằng 1 - chờ đợi là xứng đáng, 2 - tôi có khả năng làm được điều này.

Dưới đây là 4 bước cụ thể:

1. Hãy khởi đầu thật nhỏ. Hãy tạo những thói quen mới dễ tới nỗi bạn không thể từ chối.
2. Cải thiện một thứ nào đó trong cuộc sống lên thêm 1%, đo ra sao là việc của bạn.
3. Hãy làm lại những thứ trên trong ngày mới.
4. Tìm cách để bắt đầu trong ít hơn 2 phút.
Theo Van Vu
Trí thức trẻ
Share:

Thứ Bảy, 5 tháng 11, 2016

Làm thế nào để đánh thức cái tôi sáng suốt?

Làm sao để phát huy cái tôi sáng suốt và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực từ cái tôi nhạy cảm hoặc phóng đại quá mức?


Ảnh: Nữ doanh nhân tài năng và xinh đẹp Brit Morin: Với phương châm: “Hãy làm những gì bạn thích”, Brit Morin hiện thực hóa niềm đam mê cá nhân: chia sẻ kinh nghiệm về ẩm thực, thời trang, làm đẹp… bằng cách của riêng mình. Thành công của Brit+Co tiêu biểu cho cá tính quyết liệt và sự linh hoạt thú vị của nữ doanh nhân xinh đẹp này.

Có định kiến cho rằng người có cái tôi lớn thường chỉ thích hợp làm công tác chuyên môn. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp hiện đang trao quyền quản lý cho những doanh nhân xuất phát là nhà thiết kế, nghệ sỹ sáng tạo. Việc phát huy năng lực cá nhân của họ đã khiến công ty giành được những lợi thế khác biệt đáng kể.


Hai mặt của cái tôi 

Cái tôi được hiểu là sự tự nhận thức của một người về tư cách, nhân phẩm hoặc giá trị của chính mình. Cái tôi cá tính tạo nên sự khác biệt của mỗi người. Tính cách nào cũng có những điểm mạnh và điểm yếu, thậm chí ngay cả sự kiêu hãnh ngạo mạn cũng có thể là trợ thủ đắc lực của doanh nhân.

Trong kinh doanh, hầu hết mọi người đều thích làm việc với những người có cá tính mạnh mẽ. Họ được nhìn nhận từ góc độ tâm lý học là những nhà quản lý sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm, tư duy logic và hoàn thành công việc nhanh nhất. Rất nhiều thương vụ được đàm phán thành công nhờ cá tính quyết làm bằng được của người đàm phán.
 
Nữ doanh nhân Cao Thị Ngọc Dung, Tổng giám đốc PNJ, từng chia sẻ: “Người ta thành công là nhờ tính cách bản thân, cũng như sự rèn luyện cùng môi trường, nề nếp gia đình và bối cảnh xã hội”. Thống kê đã chỉ ra rằng hầu hết các doanh nhân thành công đều có cái tôi mạnh mẽ.

Ngược lại, người có cá tính mềm yếu là người không quyết đoán và vì thế, khó xác định được hướng hành động. Mặt khác, người có cái tôi lớn không có nghĩa là có tính cách mạnh mẽ mà đôi khi cố khẳng định cái tôi của mình, họ chỉ chứng tỏ sự tự ti về bản thân.
Có một điều thú vị là với các nữ doanh nhân, cái tôi của họ thường gây ấn tượng sâu sắc và rất khó đoán định. Sự biến chuyển linh hoạt không kém phần phức tạp trong cá tính và biểu hiện hành xử của họ vừa là lợi điểm vừa là điểm yếu.

Nữ tướng lừng lẫy một thời của làng công nghệ, Carly Fiorina, là một ví dụ. Khi làm giám đốc điều hành hãng máy tính khổng lồ Hewlett – Packard (HP), bà quyết liệt làm mọi việc mà bà cho là đúng. Tính cách cứng rắn quá mức và đặt cái tôi lên trên lợi ích công ty của bà đã dẫn tới những quyết định thiếu suy nghĩ thấu đáo. Bài học rút ra là lãnh đạo tốt nhất phải là người làm nên công ty chứ không chỉ tạo nên chính bản thân mình.

Cần lưu ý, đặc điểm não bộ có thể xử lý nhiều thông tin sẽ giúp phụ nữ thành đạt thực hiện tốt nhiều công việc trong bộn bề, nhưng chính điều này lại có thể gây ra những hạn chế nghiêm trọng đối với cái tôi sáng tạo, sức đột phá của họ.


Năng lượng mới từ cái tôi tích cực

Nhiều tờ báo lớn trên thế giới đang nhắc tới Jessica Minh Anh, nữ giám đốc sáng tạo kiêm người mẫu của J Model Management. Điều gì đã tạo nên sức hút ở cô? Có thể thấy đó là sự tự tin và dám làm điều khác biệt. Minh Anh luôn bị hấp dẫn bởi các ý tưởng mới và những địa điểm đặc biệt có tính biểu tượng. Từ mặt đất, cô đem sàn catwalk lên không trung rồi xuống dưới mặt nước: tổ chức diễn thời trang trên cây cầu tháp Tower Bridge của London, khách sạn Savoy London, cầu trên không ở hẻm núi Grand Canyon Skywalk (Mỹ), tháp đôi Petronas (Malaysia), trên dòng sông Seine lãng mạn ở Paris, Gardens by the Bay (Singapore) với đường băng trên không cách mặt đất 25m, tháp Eiffel (Paris)… Kết hợp giữa đam mê, quyết đoán và liên tục cách tân, Minh Anh cho rằng điều quan trọng là phải nhận thức rõ điểm mạnh và điểm yếu của mình.


Jessica Minh Anh 
 
Vấn đề nữa cần được xem xét là cá tính của chính người lãnh đạo. Không gì gây trở ngại đến việc thấu hiểu người khác bằng chính cá tính của bản thân. Khi theo đuổi khát vọng cho sự nghiệp cá nhân, nhà lãnh đạo cần kết hợp hài hòa giữa nguyện vọng của mình và lợi ích của nhân viên.

Thay vì luôn áp chế hay thách thức và đối đầu với cá tính của người khác, người lãnh đạo thành công hơn khi hiểu ảnh hưởng của cá tính với văn hóa doanh nghiệp.

Có một khía cạnh của cá nhân hóa mà các nhà lãnh đạo cần quan tâm, đó là lòng trắc ẩn. Cá nhân hóa đôi khi rất ích kỷ vì nó chỉ tập trung vào cái tôi. Lòng trắc ẩn là một xúc cảm hướng trực tiếp tới người khác, giúp bạn thể hiện sức mạnh của cái tôi với một trí óc tỉnh táo và cởi mở, không hề bị sự kiêu ngạo làm vẩn đục.

Trong cuốn The Power of Full Engagement, tác giả Jim Loehr và Tony Schwartz chứng minh rằng những người có thành tích cao trong cuộc sống là những người biết quản trị năng lượng cá nhân để duy trì hiệu suất cao lẫn sức khỏe, hạnh phúc và cân bằng cuộc sống. Nhờ phát huy cái tôi sáng suốt, họ vượt qua những áp lực của công việc và tái tạo cho mình một năng lượng mới.

Làm thế nào phát triển cái tôi sáng suốt?

Trong cuộc sống và công việc, ta thường giả vờ rằng mình muốn sự thật nhưng thực ra ta đang tìm kiếm sự đảm bảo. Khi muốn tin điều gì đó là đúng, ta sẽ “chiếu” đúng vào những thứ củng cố nó mà thôi và cái tôi hầu như chỉ gắn chặt vào điều cố định đó.

Chip Heath và Dan Heath, tác giả cuốn Decisive (Quyết đoán) đưa ra các giải pháp để ra quyết định hiệu quả và giúp bảo vệ chúng ta khỏi những định kiến của cái tôi quá mức.

Thay vì đưa ra quyết định dựa trên cảm xúc bản năng, thông tin phiến diện… chúng ta cần chủ tâm xem xét những điểm trọng yếu hơn, biết nhìn xa trông rộng hơn và chú ý những góc còn khuất lấp. Hãy tham khảo:


1/ Ở mỗi bước ra quyết định, bạn có thể gặp “bộ tứ gây hại”:

– “Khung lựa chọn hẹp” khiến bạn bỏ qua nhiều khả năng có thể cân nhắc.
– “Thiên kiến xác nhận” khiến bạn chỉ thu thập những thông tin một chiều.
– “Cảm xúc nhất thời” khiến bạn lựa chọn sai.
– Phạm lỗi “tự tin quá mức” về những khả năng chưa biết trong tương lai.


2/Hãy sử dụng phương pháp WRAP sau đây:

– W: Mở rộng các phương án (Widen Your Options)
– R: Kiểm chứng thực tế các giả định của bạn (Reality Test Your Assumptions)
– A: Giữ khoảng cách trước khi ra quyết định (Attain Distance Before Deciding)
– P: Hãy sẵn sàng để sai (Prepare to Be Wrong)
Giá trị của phương pháp WRAP nhằm tập trung sự chú ý vào những thứ ta hay bỏ lỡ nhưng thật ra rất quan trọng, giúp đưa ra quyết định tốt hơn.


3/ Ta có thể tìm những khả năng mới ở đâu?

– Khảo sát đa phương, cân nhắc nhiều phương án, tăng khả năng dự phòng.
– Tìm ai đó từng giải quyết vấn đề tương tự như vấn đề ta gặp phải.
– Cân nhắc phía đối lập. CEO cần can đảm đi tìm ý kiến bất đồng.
– Thu nhỏ, phóng to giúp chúng ta giảm bớt những tưởng tượng lạc quan quá đà, nhìn vấn đề từ góc rộng bên ngoài và sau đó soi vào cận cảnh.
– Thử nghiệm thực tế.
– Vượt qua cảm xúc ngắn hạn.
– Đề cao những ưu tiên cốt lõi.
– Đặt giới hạn cảnh báo cần thiết.
– Quyết đoán cho chúng ta sự lựa chọn dũng cảm và tự tin để có thể làm nên điều khác biệt hoàn toàn.


 Theo Bazaar Việt Nam
Share:

Thứ Hai, 19 tháng 9, 2016

Mua bán nhà tại Mỹ: Con số nào mang đến “vận may”?

Vì sao giá bán nhà ở nhiều khu vực tại Mỹ thường được niêm yết với các con số 7, 8, 9?...


Nhân viên môi giới bất động sản Brent Chang đang giới thiệu nhà được rao bán - Ảnh: WSJ.

Joe DeVito, một tay môi giới bất động sản ở Brooklyn, New York, đang có trong tay 18 căn nhà được rao bán. Một nửa trong số này có chữ số 8 trong giá chào bán, chỉ có một căn có con số 4 trong mức giá được đưa ra.

Đây đều là những căn nhà ở khu vực Sunsen Park, nơi có nhiều cư dân là người gốc Á. Trong văn hóa của nhiều nước châu Á, nhất là Trung Quốc, con số 8 được coi là một con số may mắn, trong khi số 4 bị coi là con số của sự kém may mắn. “Những căn nhà này được định giá để được bán và mua cùng với sự may mắn”, anh DeVito nói với báo Wall Street Journal.

Tránh xa số 4

Cũng giống như xổ số, bất động sản có thể là một cuộc chơi khác của những con số mà ở đó, sự mê tín luôn giữ một vị trí quan trọng. Theo một nghiên cứu gần đây do trang web về bất động sản Trulia thực hiện tại Mỹ, “sự may mắn” thường đặt ở con số cuối cùng trước dãy số 0 trong giá bán của một căn nhà (chẳng hạn số 8 trong con số 528.000 USD).

Ở những khu vực có nhiều người châu Á sinh sống ở Mỹ, 20% số căn nhà được rao bán có số 8 ở vị trí tương tự, so với tỷ lệ 4% ở những khu vực nơi người châu Á chiếm tỷ lệ thiểu số.

Theo Wall Street Journal, không chỉ người châu Á cầu may ở những con số, mà người bán nhà ở bang Nevada, nhất là tại thủ phủ bài bạc Las Vegas, cũng thận trọng khi cân nhắc sử dụng con số nào trong giá rao bán căn nhà. Tuy nhiên, con số được ưa chuộng ở vùng này là số 7. Ở Nevada, số căn nhà được rao bán có con số 7 trước dãy số 0 trong giá nhiều hơn 37% so với tỷ lệ toàn quốc.

Mua bán nhà tại Mỹ: Con số nào mang đến “vận may”? 1Sự mê tín trong những con số được thể hiện rõ nét đặc biệt ở những nơi mà người gốc Á chiếm trên 50% dân số. Có tới 37% các căn nhà cao cấp có giá từ 1 triệu USD ở những cộng đồng này có giá niêm yết với số 8 đứng trước dãy số 0.

Tại Bible Belt, khu vực bao gồm vùng Đông Nam và Trung Nam của nước Mỹ - con số 316 được sử dụng rất phổ biến trong giá nhà được niêm yết vì đây là một con số may mắn trong kinh Tân ước. Một điều đáng ngạc nhiên là 666 - một con số bị coi là hiện thân của ma quỷ trong quan niệm ở Mỹ - lại được người dân ở Bible Belt dùng trong giá bán nhà nhiều hơn 39% so với tỷ lệ toàn quốc. Bên cạnh đó, trên toàn nước Mỹ, con số 13 được dùng ít hơn khoảng 15% so với con số 12 hoặc 14 trong niêm yết giá nhà.

Sự mê tín trong những con số được thể hiện rõ nét đặc biệt ở những nơi mà người gốc Á chiếm trên 50% dân số. Có tới 37% các căn nhà cao cấp có giá từ 1 triệu USD ở những cộng đồng này có giá niêm yết với số 8 đứng trước dãy số 0.

Theo giáo sư kinh tế học Zili Yang thuộc Đại học Binghamton, trong tiếng Trung Quốc, số 8 được phát âm tương tự như từ “phát” - đồng nghĩa với sự thịnh vượng và giàu có. Trong khi đó, số 4 được phát âm gần giống như chữ “tử”, một từ chỉ sự chết chóc và kém may mắn trong văn hóa Trung Quốc.

“Các công ty đều tránh số 4 trong mọi trường hợp. Người Trung Quốc thậm chí còn không muốn số 4 xuất hiện trên biển số xe”, ông Yang cho biết.

Nhà môi giới địa ốc Brent Chang ở California cho biết, khách hàng của anh tránh xa số 4 trong gần như bất kỳ trường hợp nào. Anh cho biết, khoảng 85% khách hàng gốc Á mà anh gặp chú ý tới các con số khi mua hay bán nhà. “Nếu tôi đề xuất mức giá 2 triệu USD cho một bất động sản nào đó, họ sẽ muốn định giá ở mức 2.188.888 USD. Họ sẽ đưa số 8 vào nhiều nhất có thể”, Chang nói.

Ông Manoj Thomas, giáo sư về marketing thuộc Đại học Cornell cho biết, những con số may mắn là một chiến lược vô thức mà người bán sử dụng. Nếu một người tin rằng một con số nào đó đem đến cho anh ta may mắn và sử dụng con số đó thường xuyên hơn, con số đó sẽ trở nên có tính trực giác đối với anh ta, và anh ta sẽ cảm thấy thoải mái hơn khi sử dụng nó.

Tuy nhiên, những con số và việc đặt chúng ở vị trí nào, cũng có hiệu ứng vô thức đối với người mua. Người ta thường có xu hướng nhìn vào chữ số ở bên trái của dãy số chỉ giá, theo GS. Thomas, một nhà nghiên cứu tâm lý về xác lập giá cả. Những mức giá mà chữ số ở bên trái thấp hơn sẽ đem đến cho người mua cảm giác là họ mua được hàng rẻ.

Đó là lý do vì sao mà giá cả thường được niêm yết với nhiều con số 9, chẳng hạn 19,99 USD - theo GS. Alan Cooke thuộc Đại học Florida. “Người ta thường có tâm lý làm tròn xuống, bỏ bớt phần 0,99 USD đi, để xem mức giá là 19 USD, thay vì 20 USD”, ông Cooke cho biết.

Đẳng cấp... số nhà
Chiến lược tương tự cũng được sử dụng đối với những căn nhà được rao bán với mức giá dưới 1 triệu USD. Theo số liệu của trang Trulia, thì 54% số căn nhà như vậy được rao bán ở Mỹ có mức giá kết thúc bằng một con số 9. Tuy nhiên, đối với những căn nhà cao cấp lại khác, chỉ có 25% căn nhà có giá trên 1 triệu USD có con số giá kết thúc bằng số 9.

Một giả thuyết được đặt ra ở đây là, những con số 9 được gắn với hàng hóa tiêu dùng hàng loạt, làm giảm sức hấp dẫn đối với những khách hàng cao cấp. Theo ông Jed Koklo, chuyên gia phân tích của Trulia, thì việc đánh vào tâm lý bằng những con số càng trở nên khó khăn hơn, bởi “thật khó để khiến một căn nhà giá 3 triệu USD nghe có vẻ như là rẻ”.

Thay vào đó, những người bán nhà cao cấp có xu hướng dùng con số 5. Với những căn nhà có giá trên 1 triệu USD, 55% có con số 5 đứng trước dãy số 0, chẳng hạn 2,5 triệu USD. Với những căn dưới 1 triệu USD, chỉ có 26% sử dụng số 5 tương tự. Ông Kolko cho biết, 5 là một con số phổ biến trong niêm yết giá nhà.

“Số 5 có một vị trí đặc biệt trong tâm trí mọi người. Chúng ta xem đó là điểm giữa trong dãy số từ 1 đến 10 và thường có xu hướng tự động so sánh một con số 1 chữ số nào đó là cao hay thấp hơn 5”, GS. Thomas nói.

Theo vị giáo sư này, sau khi đã xác định được mức giá phù hợp cho căn nhà của mình, người muốn bán nhà có thể thiết lập một con số giá cụ thể sau khi có những phân tích như trên. “Điều đó sẽ tạo ra sự khác biệt”, ông khẳng định.

GS. Thomas cho rằng, sử dụng số lẻ sẽ đem đến cho người mua cảm giác mua được rẻ, trong khi số tròn nên được sử dụng cho những thứ có mức giá lớn. “Bạn có thể niêm yết một căn nhà với giá 500.000 USD hoặc 505.550 USD. Giá thứ hai sẽ hấp dẫn hơn là giá thứ nhất”, ông khuyên.

Mua bán nhà tại Mỹ: Con số nào mang đến “vận may”? 2Trong một số trường hợp, sử dụng những con số may mắn đúng là một cách để nổi bật trên thị trường bất động sản.

Tuy nhiên, chiến lược này có thể phản tác dụng nếu con số quá lẻ. Chẳng hạn, con số giá 1.328.972 USD, có thể khiến khách mua tiềm năng bỏ chạy. Do dạng những con số “dị” như thế ít được sử dụng trong cuộc sống hàng ngày, người ta cảm thấy khó “hợp tác” với chúng và có thể vô thức từ chối sử dụng chúng.

Trong một số trường hợp, sử dụng những con số may mắn đúng là một cách để nổi bật trên thị trường bất động sản. Bộ ba số 7 được sử dụng với ở bang Nevada nhiều gấp ba lần toàn nước Mỹ. Cô Tina Ott, một người ở bang Minnesota cho biết, từ năm 1995 đến nay, lần nào bán nhà gia đình cô cũng rao giá với bộ ba số 7. “Thay vì rao với mức giá 319.900 USD, chúng tôi đưa ra mức giá 319.777 USD”, cô Ott nói.

Những con số không chỉ có ảnh hưởng tới giá mà còn cả tới địa chỉ của các căn nhà. Trong một báo cáo công bố hai năm trước, giáo sư kinh tế học Nicole Fortin thuộc Đại học Columbia, phát hiện ra rằng, người mua nhà tại các khu vực đông người gốc Hoa sinh sống ở Vancouver, Canada, sẵn sàng trả giá cao hơn để mua được những căn nhà có số đẹp hơn.

Theo bà Fortin, người mua thường trả giá cao hơn 2-3% để mua những căn nhà có số kết thúc bằng số 8, trong khi người bán chấp nhận chịu giảm giá 2% để bán những căn nhà có số kết thúc bằng số 4. Xu hướng này càng được thể hiện rõ ở phân khúc thị trường nhà ở hạng sang. “Nhà có số đẹp cũng được coi là cao cấp, là danh giá”, GS. Fortin cho biết.

Nhà môi giới bất động sản Brent Chang ở California thì khẳng định: “Nếu anh có một căn nhà rao bán ở số 180, thì chắc chắn là khách châu Á sẽ rất quan tâm”. 

Vneconomy
Share:

Thứ Sáu, 16 tháng 9, 2016

Sống Thứ 5, 15/09/2016, 08:33 Kết quả nghiên cứu gây sốc: Cứ 5 CEO thì 1 người là "kẻ tâm thần" thành đạt

Theo các nhà nghiên cứu, những người này có thể trở nên phi đạo đức và sử dụng các chiến thuật kinh doanh bất hợp pháp để đạt được mục đích. Tỉ lệ này tương đương kết quả khảo sát đối với tội phạm: cứ 5 phạm nhân thì có 1 người biểu hiện rối loạn tâm lý.


Tại Hội nghị của Hiệp hội tâm lý – xã hội học Úc diễn ra ở Melbourne, nhóm nghiên cứu tới từ đại học Bond (Úc) và đại học San Diego (Mỹ) trình bày kết quả điều tra về tỉ lệ xuất hiện dấu hiệu thái nhân cách hay nhân cách bệnh (psychopath) ở các doanh nhân. Psychopath là một trong nhiều dạng khác nhau của rối loạn đa nhân cách.

Theo đó, 21% trong số 261 lãnh đạo công ty có những biểu hiện lâm sàng rõ nét của chứng thái nhân cách thể hiện qua đặc điểm tính cách hời hợt, không thành thật và thiếu sự đồng cảm. Tỉ lệ này tương đương kết quả khảo sát đối với tội phạm: cứ 5 phạm nhân thì có 1 người biểu hiện rối loạn tâm lý.

Cứ 5 CEO thì có 1 người có dấu hiệu rối loạn nhân cách. Một cảnh trong bộ phim American Psycho.

Cứ 5 CEO thì có 1 người có dấu hiệu rối loạn nhân cách. Một cảnh trong bộ phim American Psycho.
Nhà tâm lý học pháp y Nathan Brooks, đại diện nhóm nghiên cứu cho biết, kết quả khảo sát cao hơn rất nhiều so với dự đoán. Đồng thời, ông đưa ra cảnh báo về hành vi tiêu cực của 21% doanh nhân nói trên. Những người được xếp vào nhóm “kẻ tâm thần thành đạt” (successful psychopath) khác với nhóm tội phạm tâm thần (psychopath). Nhóm người này thường thiếu lòng trắc ẩn, có thể dễ dàng thao túng mọi người bằng nét cuốn hút giả tạo của mình và có khuynh hướng thực hiện những hành vi bất hợp pháp hay phi đạo đức để có thể chiếm lợi thế trong kinh doanh hay chính trị.

Các doanh nghiệp cần thực hiện quá trình sàng lọc trong quá trình tuyển dụng để xác định các dấu hiệu rối loạn tâm lý ở ứng viên. Cùng với kết quả nói trên, các nhà nghiên cứu đã phát triển công cụ giúp các công ty xác định được những đối tượng có tiềm năng trở thành successful psychopath trong quá trình tuyển dụng.

“Chúng tôi hi vọng công cụ sàng lọc này sẽ được áp dụng để có thể đưa ra đánh giá đầy đủ, giúp nhận biết những người có dấu hiệu rối loạn nhân cách, ngăn không cho họ leo lên những vị trí gây tổn hại đáng kể cho doanh nghiệp” - nhà tâm lý học Brooks cho hay.

“Những kẻ tâm thần thành đạt” (Successful psychopath)

Successful psychopath là một khái niệm gây tranh cãi nhưng không hề mới. Năm 1941, bác sĩ tâm thần người Mỹ Hervey Cleckley là một trong những người đầu tiên nhấn mạnh tình trạng nghịch lý này trong cuốn sách The Mask of Sanity.

Theo bác sĩ Cleckley, bệnh nhân mắc chứng rối loạn tâm thần hay thái nhân cách (psychopath) là một thực thể lai, ẩn sau lớp màn của sự bình thường là tâm hồn gần như vô cảm và xáo trộn liên tục. Dưới lắng kính của Cleckley, người thái nhân cách có sức cuốn hút, vị kỷ, luôn tỏ ra vô tội, sống bất lương, tàn nhẫn và không có mục đích, tránh những mối quan hệ gắn bó sâu sắc.

Tuy nhiên bác sĩ Cleckley cũng ám chỉ, một số người thái nhân cách có khả năng thành công về mặt nghề nghiệp và tạo lập quan hệ, chí ít là trong thời gian ngắn.

Trong bài báo đăng năm 1946, ông viết, một người thái nhân cách điển hình thường vượt qua 20 đối thủ bán hàng trong thời gian 6 tháng, kết hôn với cô gái hấp dẫn nhất thị trấn hay ngay lần đầu tiên mạo hiểm tham gia chính trường đã được bầu vào cơ quan lập pháp quốc gia”.
Nguyễn Nguyễn
Theo Trí thức trẻ/Dailymail, Independent
>> Mở tài khoản chứng khoán - Tư vấn Đầu tư Chứng khoán - Ủy thác đầu tư

Share:

Thứ Hai, 18 tháng 7, 2016

Người thông minh thường không quan hệ rộng và đây là lý do

Các nhà tâm lý học mới đây đã đưa ra lời giải vì sao người thông mình thường có ít bạn hơn người thường.
Thời đại nào cũng vậy, việc kết giao nhiều bạn bè, tăng thêm những mối quan hệ có thể nói là lợi thế vô cùng lớn. Tứ hải giai huynh đệ, ta giúp người, người giúp ta, những mối quan hệ đôi bên cùng có lợi chính là chìa khoá để xã hội phát triển được như ngày nay.

Như vậy cũng có nghĩa rằng việc có ít mối quan hệ xã hội là một thiệt thòi đáng kể. Có điều, mọi chuyện sẽ khác nếu như bạn là người thông minh , ít nhất là theo nghiên cứu này!

Người thông minh thường cô độc, và lý do là...
Người thông minh thường cô độc, và lý do là...
Đây là nghiên cứu được thực hiện để trả lời câu hỏi: Chúng ta có thực sự cần đến bạn bè và các mối quan hệ để trở nên hạnh phúc? Nghiên cứu do các nhà khoa học Anh và Singapore khởi xướng, trên 15.000 người trong độ tuổi từ 18-28.

Các chuyên gia đã đưa ra tới 3 kết luận. Đầu tiên, trái với suy nghĩ thường gặp, những người sống trong khu vực nhộn nhịp, đông đúc thường ít hạnh phúc hơn. Tiếp theo, chúng ta sẽ thấy hạnh phúc nếu được trò chuyện với một người tâm đầu ý hợp.

Và cuối cùng, những người có IQ cao sẽ nằm ngoài 2 kết luận trên.

Theo 2 nhà tâm lý học Satoshi Kanazawa tại Khoa Kinh tế ĐH London (Anh), và Norman Li - ĐH quản lý Singapore, những người có IQ càng cao sẽ ít cần phải giao tiếp với người ngoài. Họ dường như bất mãn với cuộc sống nếu buộc phải giao tiếp quá nhiều. Và tất nhiên, đây cũng không phải nhân vật phù hợp để... quẩy cùng, vì thường khá lập dị.

Những người thông minh có rất ít bạn, và họ hạnh phúc với điều đó

Các chuyên gia tâm lý cho biết bộ não của những người có IQ cao hoạt động khá... dị, và cách họ giao tiếp cũng khác so với người thường. Khi giao tiếp không có sự thấu hiểu giữa 2 bên, cách duy nhất để tốt cho cả 2 là... không nói nữa.

Đối với những người có trí tuệ cao hơn người thường, họ coi hoạt động xã hội là cực hình. Bằng chứng có thể thấy ngay từ những thiên tài trong lịch sử: Albert Einstein, Isaac Newton, Leonardo da Vinci... tất cả đều là những người cô độc.


Thiên tài Albert Einstein được đánh giá là khá lập dị và ít bạn
Thiên tài Albert Einstein được đánh giá là khá lập dị và ít bạn
 
Họ thích sống cho bản thân, nghĩ về những gì quan trọng với chính mình, thay vì quan tâm đến những mối quan hệ xung quanh, và họ hạnh phúc với điều đó.

Nguyên nhân xuất phát từ quá khứ xa xôi...

Có một lý thuyết mang tên "Lý thuyết hạnh phúc trên thảo nguyên", cho rằng con người chúng ta không chỉ là một tổ hợp gene liên kết với nhau, mà còn gồm những ký ức từ tổ tiên xa xưa. Cách sống của tổ tiên chúng ta ảnh hưởng đến con người ngày nay, trong đó có cả cách con người thấy hạnh phúc.

Tức là về cơ bản, chúng ta sẽ cảm thấy hạnh phúc trong tình huống, hoàn cảnh giống với tổ tiên đã thực hiện hàng ngàn năm trước.


Thời kỳ đó, con người chưa đông như bây giờ, và tổ tiên chúng ta đã phải dựa vào nhau, quây quần thành một cộng đồng để tồn tại.

Còn ngày nay, dù sống trong những thành phố lớn, nơi mỗi mét vuông vài người chen chân đứng, con người lại cô độc hơn. Xã hội sống vội, con người ít quan tâm đến nhau, và chúng ta thì chưa quen với điều đó.

Tuy vậy, người thông minh thì khác! IQ cao cho phép những người này thích nghi với điều kiện mới. Trong quá trình tiến hoá, bằng cách nào đó họ đã có thể lấp đầy sự khác biệt giữa quá khứ và hiện tại. Đó chính là lý do vì sao những người thông minh thường thích sống độc lập, không phụ thuộc vào bất kỳ ai, hoặc chỉ cần những mối quan hệ thân cận nhất là được.
Tóm lại, việc có quan hệ rộng đúng là một lợi thế, nhưng điều này là không bắt buộc, ít nhất là với những người thông minh.


Theo Trí Thức Trẻ/Kenh14/Nguồn: Bright Side

Share:

Thứ Ba, 5 tháng 1, 2016

4 hiện tượng tâm lý làm thay đổi hiệu quả marketing

Một trong những yếu tố có ảnh hưởng sâu sắc nhất đến marketing là tâm lý học. Trong ngành tâm lý học, “định kiến nhận thức” (cognitive bias) là một hiện tượng tâm lý phổ biến, được định nghĩa là một loại “lỗi” trong quá trình xử lý và giải nghĩa các thông tin mà bộ não con người tiếp nhận. 

Về cơ bản, có 4 hiện tượng “định kiến nhận thức” có ảnh hưởng quan trọng nhất đến marketing là:

• Nỗi lo mất mát: Khiến khách hàng kiên trì giữ lấy những gì họ đang có

• Hiệu ứng “neo” tâm lý: Khiến khách hàng chỉ tập trung vào thông tin đầu tiên họ tiếp nhận.

• Hiệu ứng thiên vị trong lựa chọn: Khách hàng chỉ cảm thấy thoải mái với những lựa chọn quen thuộc và bỏ qua những thông tin trái chiều.

• Hiệu ứng diễn đạt: Quyết định tính tích cực hay tiêu cực của một sản phẩm, dịch vụ hay một sự việc.

Dưới đây là những thông tin chi tiết về các hiện tượng tâm lý kể trên và những ứng dụng trong marketing giúp các marketer thực hiện các chiến dịch tiếp thị một cách thành công.

1. Nỗi lo mất mát

Mọi người có xu hướng tránh rủi ro, mất mát hơn là cố gắng để đạt được một điều gì đó. Ví dụ, khi mất 200.000 đồng, một người sẽ có cảm xúc mãnh liệt hơn là việc nhận được số tiền tương đương. Hiện tượng tâm lý này cùng các hệ quả của nó là định kiến về trạng thái hiện tại (the status quo bias) và hiệu ứng của sự sở hữu (endowment effect), khiến chúng ta thích những thứ mình đang sở hữu hơn.

Trong marketing, người bán nên cho khách hàng thấy họ sẽ mất gì nếu không sử dụng sản phẩm dịch vụ, từ đó gợi nên một cảm xúc mạnh mẽ thúc giục họ hành động. Sau đó hãy quảng bá những thông điệp này trên các landing page, hoặc website công ty, từ đó có thể biến những người sử dụng internet thông thường thành khách hàng của công ty.

2. Hiệu ứng “neo” tâm lý

Con người thường có xu hướng lấy những thông tin đầu tiên họ nghe hoặc nhìn thấy làm tiêu chuẩn để đánh giá các thông tin họ tiếp nhận sau đó. Ví dụ, khi bạn đi qua một cửa hàng thời trang và nhìn thấy giá của một chiếc áo len là 500.000 đồng, sau đó tiếp tục đi sang cửa hàng bên cạnh và thấy chiếc áo len cùng loại với giá chỉ một nửa, ngay lập tức bạn sẽ nghĩ chiếc áo thứ hai có giá hời. Lúc này, quyết định của bạn đã bị ảnh hưởng bởi giá của chiếc áo đầu tiên.

Hiệu ứng “neo” tâm lý có ảnh hưởng lớn hơn nhận thức về giá cả của một món đồ. Khi tâm trí đã bị “neo” vào một thông tin nào đó, nó sẽ không thể sáng suốt nhìn nhận những yếu tố khác quan trọng hơn. Ví dụ, một khách hàng mua xe hơi khi đã tập trung vào chất liệu da của ghế ngồi thì sẽ chỉ để tâm đến nội thất trong xe mà quên đi những yếu tố khác như động cơ, đồng hồ cây số hay bộ tiết kiệm xăng.

Các marketer có thể áp dụng định kiến nhận thức này của khách hàng để thực hiện một số thủ thuật giúp gia tăng khả năng mua hàng như: giảm giá hàng tồn kho, giới hạn số lượng bán, hay các cách làm khác nhằm tập trung sự chú ý của khách hàng vào những yếu tố đầu tiên mà họ để tâm.

3. Thiên vị trong lựa chọn

Tất cả chúng ta đều có những sự ưu tiên không rõ lý do, ví như thích một loại kem, dòng điện thoại, hay quan điểm về một vấn đề xã hội… Theo đó, chúng ta chỉ tập trung vào mặt tích cực của chúng và không để tâm quá nhiều đến mặt tiêu cực.

Ví dụ, khi là một fan hâm mộ của một đội bóng, ta thường có xu hướng giảm nhẹ những tình tiết xấu như những trận thua, những cầu thủ kém, hoặc đội ngũ quản lý có vấn đề. Thay vào đó, ta thường ca ngợi những ngôi sao trong đội, những cú cản phá đẹp, hay ngưỡng mộ lịch sử hình thành của đội bóng. Đây là một ví dụ đơn giản và điển hình cho hiệu ứng thiên vị trong lựa chọn.

Định kiến này ảnh hưởng đến hiệu quả marketing theo các cách sau:

• Khách hàng có xu hướng mua sản phẩm/dịch vụ họ thấy quen thuộc.
• Khách hàng có xu hướng tin tưởng những thông tin ủng hộ lựa chọn của họ.
• Khách hàng có xu hướng quên đi những thông tin chống lại quan điểm của họ.

Hiệu ứng thiên vị này đặc biệt phát huy tác dụng khi khách hàng đã mua sản phẩm. Bằng cách sử dụng email marketing, công ty có thể tăng cường nhận thức của khách hàng về thương hiệu qua việc chia sẻ những lời nhận xét (testimonials), bằng chứng về chất lượng, và nhắc nhớ về lý do lựa chọn sản phẩm.

Các marketer cũng có thể tạo nên hiệu ứng thiên vị này trước cả khi khách hàng mua sản phẩm bằng phương thức email opt-in (hình thức gửi email sau khi được khách hàng cho phép), like trên mạng xã hội, từ đó khiến họ quyết định một cách vô thức và nhanh chóng trở thành khách hàng.

4. Hiệu ứng diễn đạt

Hiệu ứng diễn đạt là một trong những hiệu ứng tâm lý phổ biến nhất trong marketing. Theo đó, quyết định của mỗi người sẽ phụ thuộc vào việc những lựa chọn được đưa ra được diễn đạt như thế nào.
Một thí nghiệm về hiệu ứng diễn đạt được thực hiện bởi hai nhà tâm lý kinh tế học Kahneman và Tversky đã nêu lên một vấn đề với hai lựa chọn:

• Lựa chọn 1: có 33% cơ hội cứu sống 600 người, nhưng có 66% cơ hội không ai được cứu. Kết quả: 200 người được cứu sống.

• Lựa chọn 2: có 33% cơ hội không ai phải chết, nhưng có 66% cơ hội tất cả mọi người đều phải chết. Kết quả: 400 người sẽ chết.

Hai lựa chọn có kết quả giống hệt nhau, nhưng được diễn đạt theo hai cách khác hẳn nhau, một bên tích cực, còn một bên tiêu cực. Đa phần những người tham gia khảo sát đã chọn cách diễn đạt tích cực.

Có thể thấy, những thay đổi về câu từ có thể mang lại những sự khác biệt lớn, ví dụ:

• Sự nóng lên toàn cầu - Sự biến đổi khí hậu
• Tiết kiệm 50% - Giảm một nửa
• Anh đã thắng - Cô ta đã thua
• Đầy 30% - Rỗng 70%
• Không có kinh nghiệm quân sự - Kinh nghiệm chính trị sâu rộng
• 90% cơ hội sống sót - 10% rủi ro tử vong.

Sự thật vẫn luôn là sự thật, nhưng cách diễn đạt sự thật đó sẽ ảnh hưởng đến cách mọi người phản ứng với nó. Hiệu ứng thú vị này được sử dụng rộng rãi bởi các chính trị gia, doanh nhân, các bậc cha mẹ, và tất cả những ai đứng ở vị trí trung gian có vai trò định hình sự phản ứng của mọi người với thông tin.

Những định kiến nhận thức nêu trên hiện hữu ở mọi khách hàng, ở những mức độ khác nhau. Bạn chỉ cần phát hiện và áp dụng chúng đúng cách, từ đó sáng tạo nên những cấu trúc tâm lý giúp khách hàng đưa ra quyết định chính xác.
DNSG/Inc

Share:

Thứ Ba, 17 tháng 11, 2015

Biến giả thành thật: Sự thành công của ngành khoa học "tự kỷ ám thị"

Nếu bạn nghĩ mình là kẻ thất bại, bạn sẽ hành động như kẻ thất bại và rồi bạn cũng nhận được kết cục thất bại.


Thập niên 1960, nhà tâm lý học Martin Seligman đã nghiên cứu mối liên hệ giữa nỗi sợ và khả năng học tập khi ông chứng kiến một hiện tượng. Những chú chó trong thí nghiệm của Seligman phải chịu tình trạng giật điện trong môi trường kín không lối thoát. Dần dần, chúng đã học được cách chịu đựng điều đó.

Khi ông mở một lối thoát thì điều làm ông ngạc nhiên chính là chúng không buồn để ý. Những con chó cứ ngồi đó và chờ đợi sự trừng phạt.

Sau khi thực hiện một loạt các thí nghiệm tương tự khác, áp dụng âm thanh trên người thay vì giật điện, đều thu được kết quả tương tự. Seligman biết rằng những phản ứng tò mò đã bị triệt tiêu.
Đó là lời giải thích cho việc chúng ta cảm thấy không lối thoát khỏi những tình huống tiêu cực, mặc dù cơ hội thay đổi đang hiện diện trước mặt.

Tại sao chúng ta chỉ chờ đợi cú sốc?

Trí óc chúng ta rất buồn cười, những thành kiến yếu đuối luôn được định hình bằng những kinh nghiệm, sự kiện và trí nhớ.

Qua thời gian, những định kiến đó sẽ làm cho chúng ta hình thành những kết luận không chính xác, từ đó tác động đến cách chúng ta nghĩ, những gì chúng ta tin và những quyết định chúng ta thực hiện. Như nhà tâm lý học Carol Dweck nhận định: “Nhân sinh quan tác động lên cách sống của bạn. Nó sẽ định hình người bạn muốn trở thành và những giá trị bạn đem lại”.

Giống như những chú chó trong thí nghiệm của Seligman, chúng ta thường không thể thoát khỏi các tình huống tiêu cực bởi vì chính quá khứ đã dạy chúng ta không thể làm gì khác để thay đổi cách chúng ta sống.

Tuy nhiên, cách phản ứng với những tình huống tiêu cực lại ảnh hưởng sâu sắc đến cách chúng ta sống.

Chẳng hạn như bạn sẽ nghĩ ra vô số lý do để quay lưng với một cơ hội việc làm cực tốt:

· Tôi ngu ngốc
· Tôi không phải là freelancer
· Tôi không có khiếu bán hàng
· Ngày đó tôi nghỉ
· Tôi chưa chuẩn bị gì cho buổi phỏng vấn
· Tôi đã cố hết sức, nhưng khách hàng đã tìm được ai đó thích hợp hơn

Những gì bạn tự nhủ tiết lộ rất nhiều về bản thân bạn.

Theo Carol Dweck, con người có niềm tin bất biến những phẩm chất của họ đã được định hình, trí thông minh và cá tính do trời ban và không thay đổi. Họ đã tự tạo cho mình thất bại từ bên trong với những câu trả lời như vừa liệt kê.

“Tôi thất bại vì tôi là kẻ bất tài”, họ tự nhủ.

Mặt khác, tư duy con người cũng phát triển, niềm tin chúng ta có thể thay đổi và lớn lên cùng với nỗ lực và trải nghiệm. Họ tự nhủ họ có “một ngày nghỉ” hoặc “không chuẩn bị cho buổi phỏng vấn”, và chấp nhận những phẩm chất đó như là yếu tố tạm thời bên ngoài.

Tôi chắc chắn có mối liên hệ giữa những chương trình học và định kiến đến từ cha mẹ, thầy cô, bạn bè, kể cả truyền thông đã dạy bạn tin rằng bạn chỉ có khả năng làm một số điều nhất định. Hầu hết chúng ta đều không được cha mẹ chủ động tạo dựng tư duy thay đổi từ nhỏ, nhưng theo Seligman, chúng ta vẫn có khả năng tự mình làm điều đó.

Theo ông, liều thuốc giải độc cho sự bất lực nằm ở khía cạnh đối nghịch: lạc quan hóa vấn đề. Theo Seligman: “Thái độ bi quan có vẻ như không thể thay đổi nhưng thực tế thì bi quan hóa có thể được làm cho biến mất, không phải bằng những phương pháp vô định hình như huýt sáo hay hô to những khẩu hiệu mà bằng cách học những kỹ năng nhận thức mới”.

Tầm quan trọng việc phát triển khả năng tự nhận thức

Sự thay đổi là bất khả thi nếu thiếu sự tự nhận thức. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra khả năng tự nhận thức là một trong những yếu tố quan trọng nhất làm nên hiệu quả lãnh đạo, bởi vì một khi người đứng đầu nhận thức được điểm yếu và thiếu sót của mình (trong khi vẫn ý thức được điểm mạnh) thì những người xung quanh họ sẽ được hưởng lợi.

Người lãnh đạo tự nhận thức giúp tạo dựng nền văn hóa tự học hỏi và tăng trưởng, mọi người trong môi trường đó hiểu mình có thể mắc sai lầm và được giúp đỡ. Đây là dạng tư duy tăng trưởng giúp tạo nên đổi mới và sáng tạo.

Để thay đổi, hãy bắt đầu tự đánh giá trung thực. Tạo một danh sách niềm tin của bạn thân và cố xác định tại sao bạn tin những điều này:

· Điểm mạnh và điểm yếu của bạn?
· Điều gì khiến bạn căng thẳng?
· Bạn đối phó với nghịch cảnh và xung đột như thế nào?

Chúng ta nghĩ mình yếu toán, nói trước đám đông hoặc đàm phán, nhưng chúng ta dựa vào đâu để kết luận? Kết quả kiểm tra toán từ lớp 7? Cuộc đàm phán quan trọng đã trôi qua từ lâu?

Khi bạn đào xới ký ức của mình, bạn sẽ phát hiện nhiều bằng chứng phản bác giả định của bạn về bản thân mình.

Hãy thường xuyên ghi nhận những dấu hiệu thừa nhận hay phủ nhận niềm tin của bạn, giống như:

· Những thành công/ thất bại trong ngày
· Bạn đã phản ứng với những tình huống gây căng thẳng như thế nào?
· Bạn mô tả những việc xấu và tốt đã xảy ra như thế nào?
· Bạn mong muốn gì khi thực hiện một quyết định cụ thể

Dần dần, bằng cách tự nhận xét trung thực về bản thân, bạn có thể tìm thấy nhiều cách thức để thay thế những ý nghĩ và hành động tiêu cực bằng những phản hồi tích cực, hiệu quả hơn.

Biến giả thành thật

Tự ám thị cũng cho phép chúng ta nhận thức được sự lạc quan và bi quan bao quanh mình. Chúng ta bắt đầu chú ý đến cách mọi người tự nhìn nhận mình thông qua cách nói về các sự kiện, chướng ngại và thành tựu.

Theo Seligman, kiểu quan sát như vậy tác động hiệu quả đến thay đổi nhận thức vì chúng ta phải nỗ lực cạnh tranh với hành vi của những người lạc quan, cách phát triển tư duy của những người mà chúng ta ngưỡng mộ.

Nói cách khác: Nghĩ những cái đó là của mình cho đến khi chúng ta biến chúng thành của mình thực sự. Hay gọi đơn giản như nhà tâm lý học Amy Cuddy: “Biến giả thành thật”.

Như vậy, nếu chúng ta tự ám thị mình là người tự tin, sáng tạo hoặc thành công thì chúng ta sẽ hành động giống như những người tự tin, sáng tạo hay thành công

Chỉ khi chúng ta kết luận về người khác dựa trên hành vi của họ, chúng ta tự tạo cho mình niềm tin cách bản thân mình ứng xử trong các tình huống khác nhau.

Một công cụ khác cũng khá hiệu quả chính là tưởng tượng. Bộ não không thể phân biệt được sự khác nhau giữa thực và ảo, vì thế hình dung bức tranh thành công tương lai là cách tuyệt vời để cung cấp nguồn động lực mạnh mẽ cho não bộ.

Ở đây không có ý nói tưởng tượng bạn thể hiện xuất sắc trong buổi phỏng vấn ra sao sẽ đảm bảo cho bạn nhận được việc làm. Nhưng dành thời gian hình dung sự tự tin, quá trình chuẩn bị sẽ tác động lên nhận thức của bạn.

Nhiều nhân vật thành công hàng đầu thế giới cũng khẳng định sức mạnh của tưởng tượng. Nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra rằng khi bạn hình dung một hành động thì một phần tương tự của não bộ cũng phản ứng giống như khi bạn hành động thực sự.

Kiểu diễn tập bằng tinh thần như vậy giúp chúng ta nhận thức được những khó khăn, thách thức và cản trở chúng ta phải đối mặt

Việc thay đổi niềm tin và nhận thức được định hình trong nhiều năm không hề dễ dàng nhưng chúng ta có bổn phận từ chối ý tưởng những thiếu sót và sai sót của bản thân là bẩm sinh và bất biến.
Vấn đề nằm ở chỗ chúng ta phải hành động và tìm kiếm giải pháp để thay đổi cách chúng ta nghĩ. Bởi vì khi chúng ta thay đổi tư duy, chúng ta thay đổi hành vì, từ đó dẫn đến thay đổi cách chúng ta làm việc và sống.
Mai Trâm
Theo Trí Thức Trẻ/QZ 
>> 
Share:

Thứ Sáu, 9 tháng 10, 2015

5 "chiêu tâm lý" để quảng cáo thu hút người tiêu dùng

Các nhà quảng cáo được xem là những bậc thầy của khoa học tâm lý ứng dụng. Họ luôn tìm ra những cách mới để thu hút sự chú ý của khách hàng dựa trên những nghiên cứu và ý tưởng mới về tâm lý học, khoa học thần kinh và xã hội học. 

http://www.blogchungkhoan.com/2015/09/mo-tai-khoan-tu-van-au-tu-chung-khoan.html#.VheeTG5mqsW

Theo Walter Chen - nhà sáng lập kiêm Tổng giám đốc của công ty chuyên cung cấp phần mềm quản lý hiệu quả công việc iDoneThis, các nhà quảng cáo thường dùng những “chiêu tâm lý” sau đây để thu hút sự chú ý của người tiêu dùng.

1. Tác động vào các tế bào thần kinh gương (mirror neurons)

Đó là những tế bào nằm trong não bộ, chúng kích thích con người hành động theo những động tác của người khác khi họ nhìn thấy những động tác ấy.

Chẳng hạn, khi nhìn một người đang tung hứng một quả bóng, bạn cũng có xu hướng muốn làm như vậy do các tế bào thần kinh gương bị kích thích. Trong đầu bạn sẽ mường tượng ra việc mình đang tung hứng quả bóng.

Các nhà quảng cáo đã ứng dụng lý thuyết này để đưa người tiêu dùng vào các tình huống quảng cáo của mình, làm cho họ cảm thấy muốn làm theo những nhân vật trong các tình huống này.

2. Khiến cho người tiêu dùng lo lắng về những điều mà họ chưa biết

Con người vốn hiếu kỳ. Chúng ta không ngừng muốn khám phá và tìm cách nắm bắt càng nhiều thông tin càng tốt từ thế giới xung quanh. Khi chúng ta chưa biết một điều nào đó, chúng ta cảm thấy như bị thôi thúc phải tìm hiểu thêm thông tin về điều ấy. Và các nhà quảng cáo đã tìm cách tạo ra sự chú ý từ người tiêu dùng bằng cách kích thích sự hiếu kỳ của họ.

Tuy nhiên, Walter Chen khuyên các nhà quảng cáo không nên bắt khách hàng phải chờ đợi lâu mà cần giúp họ giải tỏa ngay sự tò mò. Nếu không, họ sẽ rời bỏ.

3. Vận dụng nguyên tắc bàn tay phải

Đa số mọi người đều thuận tay phải. Nói cách khác, những gì ở bên phải thì thường được chúng ta chú ý trước tiên. Đó là lý do vì sao nhiều cửa hàng bán lẻ thường trưng bày các mặt hàng phổ biến và đắt tiền ở bên tay phải của cửa hàng tính từ cửa ra vào chính hướng vô trong cửa hàng, còn các mặt hàng ít phổ biến hoặc đang giảm giá thì được trưng bày bên trái.

Google và Facebook cũng đưa các quảng cáo của mình lên một cột bên phải của màn hình vì những mẩu quảng cáo đặt bên phải có khuynh hướng được người tiêu dùng nhận thức là có độ tin cậy cao hơn.

4. Tăng giá bán

Vì sao một miếng bánh pizza giá 8 USD lại ngon hơn một miếng bánh pizza có giá 4 USD? Có thể là vì miếng bánh giá 8 USD được chế biến với thành phần, thiết bị, kỹ thuật tốt hơn. Nhưng thực tế có thể chỉ vì nó có giá cao hơn.

Một nghiên cứu mới đây cho thấy các mặt hàng thực phẩm được bán với giá càng cao thì càng được người tiêu dùng yêu thích. Các nhà nghiên cứu đã thực hiện một thử nghiệm tại một nhà hàng Ý.

Một số thực khách tại đây được mời dùng tiệc buffet (tự chọn món) với hai mức giá 8 USD, một số khác được mời dùng tiệc buffet với giá 4 USD. Sau khi dùng bữa xong, thực khách được hỏi họ thích thực đơn nào. Kết quả cho thấy, những thực khách dùng buffet giá 8 USD có xu hướng thể hiện sự thỏa mãn nhiều hơn những thực khách dùng buffet giá 4 USD, dù trên thực tế hai thực đơn này có thành phần như nhau.

Nhiều nhà tiếp thị đã áp dụng cách trên đây để tạo ra sự khác biệt cho sản phẩm của mình bằng cách định vị cho nó như là một sản phẩm cao cấp hay “chỉ có duy nhất” và tăng giá bán.

5. Nguyên tắc làm tròn giá

Nhiều nhà tiếp thị trước nay quan niệm rằng nếu được yết giá 9,99 USD thì một sản phẩm sẽ luôn được bán chạy hơn so với khi nó được yết giá 10 USD vì khách hàng có cảm giác rằng giá của mặt hàng ấy chỉ hơn 9 USD một chút. Tuy nhiên, một nghiên cứu mới đây cho rằng chiến lược định giá như thế chưa phải là tối ưu.

Hai nhà nghiên cứu Monica Wadhwa và Kuangjie Zhang đã tìm hiểu nhận thức của khách hàng đối với các con số được làm tròn và tác động của điều đó lên quyết định mua hàng của họ. Kết quả cho thấy các số làm tròn tạo ra một cảm giác tự nhiên và an toàn hơn cho người tiêu dùng và khiến họ đi đến quyết định mua hàng nhanh hơn.
Doanh Nhân Sài Gòn
Share:

Thứ Bảy, 11 tháng 7, 2015

Vì sao chúng ta thường "ảo tưởng sức mạnh"?

Thời gian gần đây, cụm từ "Ảo tưởng sức mạnh" là một câu nói vui được nhiều người, đặc biệt là giới trẻ sử dụng khá nhiều để ám chỉ những người tự tin một cách thái quá vào bản thân mình.

Trong một diễn đàn về khởi nghiệp, một chuyên gia có tiếng trong cộng đồng startup từng nhận xét rằng: "Startup Việt Nam thiếu kiến thức, lười, và quá ảo tưởng".

Trong xã hội, chúng ta cũng hay gặp những người chẳng có chuyên môn nhưng lại phát biểu rất đao to búa lớn về lĩnh vực nào đó. Tâm lý "Ảo tưởng sức mạnh" càng được củng cố khi mạng xã hội ra đời, nơi người tham gia có thể tự do thể hiện quan điểm cá nhân với cả thế giới, mà không gặp phải bất cứ rào cản thời gian, địa lý hay hệ tư tưởng nữa,

Vậy, cái gọi là "Ảo tưởng sức mạnh" đó có thật sự tồn tại trong mỗi cá nhân hay không, và làm thế nào để biết được rằng "Tôi đang ảo tưởng sức mạnh"?

Thực ra, đây là một hiệu ứng tâm lý hoàn toàn có thật được có tên gọi là Dunning - Kruger.
Dunning - Kruger là tên hai thầy trò giáo sư tâm lý học David Dunning và Justin Kruger, những người đã đưa ra báo cáo chính thức về hiệu ứng này vào năm 1999. Theo đó, định nghĩa về hiệu ứng này như sau:

"Hiệu ứng Dunning - Kruger là một sự lệch lạc nhận thức trong đó những người kỹ năng kém đưa ra những quyết định tồi và những kết luận sai lầm, nhưng việc thiếu năng lực lại ngăn cản nhận thức về chính những sai lầm đó."

Với một kỹ năng bất kì, những người chưa được rèn luyện về kỹ năng này sẽ:
- Không nhận ra được việc thiếu kỹ năng của mình.
- Không nhận ra được kỹ năng đích thực ở những người khác.
- Không nhận ra được mức độ nghiêm trọng của sự thiếu kỹ năng của mình.
- Nhận ra và thừa nhận sự thiếu kỹ năng của mình, nếu họ được huấn luyện về kỹ năng đó.

Nói một cách dễ hiểu, nếu một người chưa từng làm một việc nào đó, ví dụ như nấu ăn hay startup, thì họ sẽ thường có đánh giá chủ quan một cách sai lầm rằng: "Việc này cũng đơn giản thôi, mình cũng có thể làm được".

Lúc này, họ "tự tin" sẽ làm được tốt khoảng 50%, nhưng thực tế nếu họ làm thật thì chỉ được 0 - 10% mà thôi.
Mức độ tự tin của người không có kỹ năng cao hơn hẳn chuyên gia và những người có kinh nghiệm. 
Mức độ tự tin của người không có kỹ năng cao hơn hẳn chuyên gia và những người có kinh nghiệm. 
Theo định nghĩa này, thông thường một người chưa từng trải nghiệm trong một lĩnh vực nào đó sẽ không nhận ra được việc mình bị thiếu kỹ năng và kinh nghiệm trong lĩnh vực đó. Ví dụ như, một người lần đầu khởi nghiệp sẽ đánh giá hơi quá cao khả năng làm startup của mình. Đây có lẽ là một trong những lý do chính khiến những người lần đầu startup thường hay thất bại.

Theo hiệu ứng Dunning - Kruger, điều này bắt nguồn từ việc họ chưa có đủ kỹ năng xây dựng một startup. Và họ sẽ chỉ nhận ra điều này sau khi bị vấp ngã, được đào tạo và có bước tiến triển về kỹ năng đó.

Tuy nhiên, vẫn có khá nhiều trường hợp "không chịu nhận ra" sự kém cỏi của bản thân. Mặc cho việc thi trượt, tắc trách trong công việc và làm hỏng mọi thứ, rốt cuộc người bất tài vẫn không tin là họ bất tài!

Vậy làm thế nào để thoát khỏi vòng luẩn quẩn này?

Theo các chuyên gia, điều đầu tiên là phải tránh khỏi "bẫy" tâm lý: “Tôi đủ thông minh để không lọt vào hiệu ứng Dunning - Kruger”. Bản thân ý nghĩ này có thể chính là hiệu ứng Dunning - Kruger, hay nói cách khác cũng là một dạng của việc "Ảo tưởng sức mạnh".

Điều quan trọng nhất, là cần ý thức học hỏi thêm về lĩnh vực mình quan tâm, có thể một lúc nào đó chúng ta sẽ “ngộ” ra rằng: "À, mình đã sai rồi”.

Sau khi khám phá ra hiện tượng thú vị này, David Dunning và Justin Kruger mô tả ngắn gọn hiện tượng này bằng cách trích dẫn một câu danh ngôn nổi tiếng của Bertrand Russell:

“Một trong những điều đau khổ của thời đại chúng ta là những ai cảm thấy chắc chắc lại là những kẻ ngu ngốc, còn người giàu tưởng tượng và tri thức lại lấp đầy bởi sự hoài nghi và lưỡng lự”.

Có lẽ, chúng ta nên dừng lại một phút để tự hỏi bản thân rằng: "Tôi có đang ảo tưởng sức mạnh"?

(Theo Tri Thức Trẻ)

>> Vấn đề của start-up Việt: Thiếu kiến thức, lười và quá "ảo tưởng"

>> Bài học từ Buffett: Hãy nghi ngờ bản thân


Share:

Trang

Nổi bật

Giới siêu giàu kiếm tiền từ đâu?