Kiến thức chứng khoán - Kinh nghiệm đầu tư chứng khoán

Hiển thị các bài đăng có nhãn Charles Koch. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Charles Koch. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 17 tháng 10, 2015

Thế hệ mới gia đình Koch : Nhìn về tương lai (P.4)

Giữ vững triết lý đầu tư với tầm nhìn 20 năm, Koch đang dấn thân vào những ngành thiết yếu của tương lai: điện, nước, công nghệ cao. Và chuẩn bị cho thế hệ thứ 3 tiếp nối thành công và phát triển Koch Industries lớn mạnh hơn những gì thế hệ thứ 2 đã làm.

http://www.blogchungkhoan.com/2015/09/mo-tai-khoan-tu-van-au-tu-chung-khoan.html#.ViI50W5mqsW

Koch không đặc biệt lạc quan về nền kinh tế hiện nay. Feilmeier nói rằng công ty dự kiến tăng trưởng chậm trong tương lai gần nhưng sẽ có những điểm sáng. Sự đổi mới liên tục trong các thiết bị điện tử sẽ thúc đẩy nhu cầu đối với ngành sản xuất công nghệ cao. Dĩ nhiên, vụ mua lại Molex là một ví dụ cho xu hướng này.

Một xu hướng dài hạn khác mà Koch nhận ra là các công ty cung cấp điện thường có nhu cầu tái đầu tư mạng lưới điện. Koch có một hướng đi khá lạ lùng để giải quyết vấn đề này là đầu tư vào ngành công nghiệp sắt thép. Gần đây họ đầu tư vào một nhà máy trị giá 1,1 tỉ USD được xây dựng ở Osceola bởi Big River Steel. Koch không cho biết họ đã đầu tư bao nhiêu nhưng nhà sản xuất thép Nucor ước tính Koch chi 125 triệu USD để nắm 40% cổ phần của nhà máy.

Khoản đầu tư này tương đối nhỏ với Koch nhưng đó chính là cách công ty thường làm khi thâm nhập vào một thị trường – thực hiện những thương vụ nhỏ trước tiên. Đây giống như một dạng thí nghiệm có phí đặt cọc thấp giúp công ty không bị tổn thất nhiều nếu thâm nhập thị trường thất bại.

Ví dụ, năm 2004 Koch bắt đầu kinh doanh lâm sản một cách thận trọng bằng việc mua lại nhà máy bột giấy và các tài sản khác từ công ty gỗ Georgia – Pacific với giá 610 triệu USD. Sau khi vận hành những nhà máy này một thời gian ngắn, Koch bất ngờ mua lại tất cả tài sản của Georgia – Pacific vào năm sau đó.

Feilmeier cho biết Koch bị thu hút vào vụ mua lại Big River Steel vì nhà máy sẽ là nơi duy nhất tại Mỹ sản xuất thép luồn dây điện với quy mô lớn nhất – nguyên liệu chế tạo máy biến áp, dây điện, và những thiết bị khác sử dụng cho lưới điện đặc biệt trong tương lai. “Điều chúng tôi thấy là một cơ hội giúp nước Mỹ trang bị lại bản thân bằng lưới điện và nhà máy này đang được định vị để làm điều đó.” Feilmeier nói.

“Vì vậy chúng tôi học được và tạo ra được nhiều thứ. Và nó có khả năng đưa chúng tôi vào những thị trường hoàn toàn lạ lẫm trong 10 đến 20 năm tới.” Tất cả những việc này liệu có phải là dấu hiệu cho thấy Koch cuối cùng sẽ thực hiện một vụ mua lại hàng tỷ USD với công ty sản xuất thép Nucor, cũng như từng làm với Georgia Pacific? “Có thể, nếu họ có những vấn đề mà chúng tôi có thể giúp họ giải quyết!”, Feilmeier nói.

Những khoản đầu tư của Koch vào ngành thép và thiết bị điện tử đã quá rõ ràng. Tuy nhiên công ty này còn âm thầm thực hiện vài vụ thu mua khác. Một trong những vụ thu mua ngầm hấp dẫn nhất của họ liên quan tới tài nguyên thiên nhiên quý giá nhất trên hành tinh của chúng ta – nước. Koch là một trong số ít các công ty đang xây nên nền tảng của ngành công nghiệp cung cấp nước sạch.

Luận điểm đầu tư rất đơn giản: nước sạch và và tinh khiết ngày càng khan hiếm trong khi nhu cầu đang gia tăng. Sự bùng nổ dân số trong thế giới đang phát triển gây thiếu hụt nguồn cung cấp nước sạch, tạo ra nhu cầu mạnh mẽ về những cỗ máy có thể khử mặn nước biển hoặc lọc sạch nước bị ô nhiễm.

Theo tập đoàn nghiên cứu thị trường TechNavio, thị trường khử mặn nước dự kiến sẽ tăng 9,5% mỗi năm từ 2012 đến 2016. “Tôi nghĩ cung cấp nước là một lĩnh vực kinh doanh quan trọng”, Jones, cựu phó chủ tịch quỹ đầu tư mạo hiểm của Koch nói. Ông nói ông luôn thúc đẩy đầu tư vào nước trong thời gian còn làm việc ở đó. “Nước sạch, nước tinh khiết, nước tái chế không phải là tài sản dùng cho mục đích đầu cơ.”

Koch đang âm thầm đẩy mạnh việc kinh doanh nước qua một bộ phận gọi là Koch Membrane Systems, có trụ sở tại Wilmington, Massachusetts. Bộ phận này vốn được thành lập để bán thiết bị lọc nước thải tại các khu công nghiệp ví dụ như các nhà nhà máy lọc đầu của Koch. Các nhà khoa học tại Koch Membrane Systems trở thành chuyên gia trong lĩnh vực chế tạo máy sản xuất nước sạch công nghệ cao mà chỉ chiếm một không gian nhỏ.

Vào những năm 1990, tập đoàn này bắt đầu mua lại các kỹ thuật giúp mở đường ngành cung cấp nước lọc cho người tiêu dùng, thay cho ngành lọc đầu truyền thống, theo Steven Iannelli, người làm cho Koch Membrane Systems từ năm 1991 đến 2000, sau đó rời công ty khi đang giữ chức vụ phó chủ tịch bộ phận phát triển.

Hiện nay, Koch cung cấp một loạt các sản phẩm và dịch vụ liên quan đến nước. Họ đang bán hệ thống lọc nước cho các thành phố ở Mỹ như Franklin, Mass, và xúc tiến để mở rộng ra nước ngoài. Koch còn bán hệ thống khử muối cho một nhà máy điện ở Trung Quốc và một khu mỏ ở Chile. Họ cũng cung cấp cho các nhà thầu Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ công nghệ máy tạo nước di động, chiếc máy này có thể tạo ra nước uống từ nước biển hoặc các nguồn ngước bị ô nhiễm bởi chất hóa học và thậm chí cả chất thải hạt nhân.

Ngoài ra Koch có một hệ thống gọi là Puron Plus, một máy tạo nước đúc sẵn có thể được chế tạo để lắp đặt tại các thành phố hoặc nhà máy. Koch chế tạo Puron dưới dạng “những chiếc máy đóng gói” có thể nhanh chóng dựng lên để sử dụng với hệ thống lọc được thiết lập nhiều mặt đáy khác nhau để phù hợp với các không gian nhỏ hẹp. Những sản phẩm dạng này sẽ có ích cho các thành phố đông đúc cần máy xử lý nước thải mới nhưng lại không có nhiều không gian để chứa chúng.

Ngành kinh doanh nước của Koch vẫn còn nhỏ bé so với các nhà máy lọc dầu và phân bón của công ty. Nhưng công ty nhìn thấy lợi nhuận tiềm năng rất lớn trong tương lai. Feilmeier cho biết có người đã đề nghị mua lại bằng sáng chế công nghệ tạo nước của Koch với giá “hàng trăm triệu USD”. “Chúng tôi không sẵn lòng làm điều đó vì chúng tôi nghĩ rằng mình có thể đưa công nghệ đó vào thị trường và thương mại hóa nó.”

Một khía cạnh trong trò chơi dài hơi mà vẫn chưa rõ ràng của Koch là ai sẽ điều hành công ty sau Charles Koch. Người đàn ông 78 tuổi tràn đầy năng lượng dường như chưa sẵn sàng để nghỉ hưu sớm, tuy nhiên kế hoạch tìm người kế nhiệm là hết sức quan trọng với một công ty đầu tư có tầm nhìn 20 năm.

Không ai được phỏng vấn cho rằng David Koch sẽ tiếp quản công ty. Các dự đoán có xu hướng tập trung vào nhóm nhỏ các phụ tá làm việc thân cận với Charlie, bao gồm cả Giám đốc tài chính Feilmeier và Chủ tịch công ty, ông David Robertson, 51 tuổi. Nhưng có một người trẻ tuổi đầy triển vọng tại Koch, người nhận được nhiều dự đoán hơn bất cứ ai khác: Charles Chase Koch.

Con trai Charles Koch, được gọi là Chase, kế thừa tinh thần cạnh tranh khốc liệt của cha (theo nhận định từ những người quen biết anh) và là một tay vợt trong bảng xếp hạng quốc gia từ lúc 12 tuổi. Hiện tại Chase 36 tuổi, anh đã học kinh doanh tại Đại học Texas A&M và gia nhập Koch Industries từ giữa những năm 20 tuổi.

Có thể thấy anh đang được chuẩn bị chu đáo để trở thành người lãnh đạo. Anh đã che mờ các giám đốc điều hành cấp cao và nhân viên trong các bộ phận khác nhau của Koch từ khi bước vào công ty. Hiện nay anh là phó chủ tịch bộ phận nông nghiệp của Koch và vào đầu năm 2014, anh sẽ được thăng chức thành chủ tịch của Koch Fertilizer, giúp dẫn dắt các nỗ lực mở rộng của công ty. Công ty từ chối để Chase tham gia một cuộc phỏng vấn cho bài viết này.

Bất cứ ai trở thành Giám đốc điều hành kế tiếp của Koch Industries đều phải chứng tỏ rằng công ty không phải chỉ là sản phẩm từ sự nhạy bén kinh doanh của Charles Koch – trong một số phương diện, điều này tương tự với thách thức được giao cho Giám đốc điều hành Apple, Tim Cook và đội ngũ quản lý của ông sau khi Steve Jobs qua đời.

Và nhà lãnh đạo tiếp theo của công ty sẽ làm việc với một danh mục đầu tư các doanh nghiệp đã chuyển đổi. Như Feilmeier nói, “Khi chúng tôi mua thứ gì đó, chúng tôi đều có ý định giữ nó mãi mãi. “ Một ngày nào đó, có lẽ mọi người sẽ nhắc đến Koch như một công ty về công nghệ.

Cập nhật – Phản hồi từ Charles Koch:

Bài viết “Tập đoàn Koch mới” của tạp chí Fortune đã phác họa bức chân dung chính xác và trung thực về công ty chúng tôi nhưng một khía cạnh trong bài viết đã rất không chính xác – đó là mô tả về vai trò của em trai tôi, David Koch tại Koch Industries.

David đã và sẽ tiếp tục đóng một vai trò tích cực và quan trọng trong việc quản lý và lãnh đạo Koch Industries. Đồng thời, cậu ấy cũng là một cổ đông bình đẳng như tôi. Cậu ấy hiện là Phó Chủ tịch điều hành của công ty và là một thành viên của Ban giám đốc từ năm 1967.

David cũng là Chủ tịch và Giám đốc điều hành của Koch Chemical Technology Group. Từ khi gia nhập KCTG vào năm 1970, cậu ấy đã lãnh đạo và xây dựng công ty vượt mọi kỷ lục, vượt xa những gì chúng ta có thể tưởng tượng. Chia sẻ của Steve Feilmeier trong bài viết rằng có người đề nghị mua lại bằng sáng chế công nghệ tạo nước quý giá của Koch Membrane với giá “hàng trăm triệu USD” chỉ là một bằng chứng nhỏ cho thấy sự lãnh đạo của David có vai trò quan trọng như thế nào.
Charles G. Koch

Chủ tịch Hội đồng quản trị & Giám đốc điều hành
Koch Industries, Inc. 
Mai Nguyễn
Theo Trí Thức Trẻ/Fortune
>> Thế hệ mới gia đình Koch: Quản trị theo định hướng thị trường (P.3)
>> Thế hệ mới gia đình Koch: Phát triển thành tập đoàn đầu tư tư nhân (P.2)
>> Thế hệ mới gia đình Koch: Tập đoàn tư nhân lớn nhất Hoa Kỳ (P.1)
Share:

Thế hệ mới gia đình Koch: Quản trị theo định hướng thị trường (P.3)

Thành công của Charles Koch đem lại cho Koch Industries chính nhờ áp dụng triết lý “Quản trị theo định hướng thị trường – MBM” thành văn hóa công ty. Chính nhờ vậy, Koch đã phát triển vượt bậc nhờ nắm được cơ hội trong ngành phân bón.


Một khi Koch đã quyết định đầu tư kinh doanh, công ty này luôn theo đuổi một cách tiếp cận tương đối nghiêm ngặt trong việc điều hành kinh doanh, đây là điều mà Charles đã nghiệm ra được qua nhiều năm làm việc. Ông ta đã đúc kết lại cách tiếp cận này thành một triết lý mà ông gọi là “Quản trị theo định hướng thị trường – MBM”. Ông thậm chí còn đăng ký một biểu tượng cho tài liệu này, và dùng nó in lên tài liệu.

Năm 2007, Charles xuất bản một cuốn sách gọi là “Khoa học của sự thành công”, giải thích hệ thống quản trị của Koch. MBM, theo cách gọi của tập đoàn, là nền tảng vận hành hàng ngày của công ty. Trên tường của trụ sở chính của tập đoàn không có nhiều bức họa, thay vào đó là 10 điều hướng dẫn thực hiện MBM. Khi nhân viên dùng cà phê Starbucks miễn phí tại phòng giải lao, các nguyên tắc này được in trên cốc.

Ảnh hưởng của MBM lên các nhân viên tập đoàn Koch là không thể chối cãi. Một cựu lãnh đạo cấp cao cho rằng “Đó là cuộc đời tôi”, ông này từng làm việc nhiều năm với Charles Koch. Theo ông, tầm quan trọng của MBM không chỉ là những lời khuyên cụ thể. MBM quan trọng vì nó làm nhân viên đoàn kết, tạo ra một ngôn ngữ chung và mục tiêu chung.

Người ngoài cố gắng hiểu được MBM có thể là việc làm khá điên rồ. Hệ thống nguyên tắc ngày có vẻ giống như một mớ hổ lốn các câu châm ngôn sáo rỗng về quản trị. Chẳng hạn, 10 nguyên tắc hướng dẫn của MBM bao gồm nhiều cụm từ dễ bắt chước như là “tạo ra giá trị”, “ngay thẳng”, “thay đổi” và “kinh doanh theo nguyên tắc”. Nhưng có một thứ gì đó rất thực tế trong MBM, và điều này tạo ra văn hóa doanh nghiệp của Koch Industries. Và cách duy nhất để hiểu rõ cách thức Koch hoạt động là nghiên cứu kỹ từng bộ phận của họ. Bộ phận kinh doanh phân bón của họ là một ví dụ rõ ràng.

Vào năm 2002, công ty Farmland Industries, lúc đó sở hữu một mạng lưới các nhà máy sản xuất phân đạm, buộc phải tuyên bố phá sản và bán các đơn vị kinh doanh của mình. Năm sau đó, Farmland tổ chức một cuộc đấu giá nhà máy sản xuất phân bón trong phòng họp tại trụ sở chính của mình ở Kansas – Mỹ. Căn phòng trưng đầy những bức hình sáng loáng của nhà máy, với mục đích khơi màu một cuộc đấu giá sôi nổi. Nhưng chỉ có 2 công ty tham gia: công ty sản xuất phân bón khổng lồ Agrium và Koch Industries.

Sự xuất hiện của Koch là một bất ngờ đối với những người ngoài. Tại sau một công ty dầu khí lại có hứng thú mua lại nhà máy sản xuất phân bón trong khi nhà máy này đang làm ăn thua lỗ? Điều mà người ngoài không biết là Koch đã nghiên cứu Farmland nhiều năm, cũng giống như cách mà Koch đang nghiên cứu các công ty và ngành công nghiệp khác hiện tại. Đây là kiểu phân tích trong nhóm phát triển trung ương của Koch. Khi đánh giá một vụ mua lại, các nhà quản trị của Koch tập trung vào 3 nhân tố chính:

1. Ngành kinh doanh này phải đang có vấn đề. Khi một công ty làm ăn tốt, không có nhiều cơ hội. Nếu nó gặp vấn đề lớn, sẽ có nhiều khả năng Koch thu được lợi nhuận khi ngành này phục hồi.

2. Vụ mua lại phải là một vụ đầu tư lâu dài. Nhiều công ty đại chúng muốn thấy lợi nhuận cao hàng quý. Thậm chí, ngay cả các quỹ đầu tư vào các công ty tư nhân cũng muốn các nhà đầu tư của mình cho thấy được lợi nhuận trong thời gian vài năm. Koch không như thế. Koch là một công ty tư nhân do đó họ có thể chờ đợi kết quả qua hàng thập kỷ.

3. Koch muốn có kỹ năng của các công ty bị mua lại (hoặc là “năng lực lõi” theo như ngôn ngữ MBM) để làm lợi cho họ. Koch không chỉ mang tiền tới. Họ học được kiến thức. Nếu Koch không hiểu rõ cốt lõi của công ty bị mua lại, họ sẽ bỏ qua vụ đầu tư.

Nhóm phát triển trung ương của Koch thường nghiên cứu cặn kẽ thương vụ và thực hiện một loạt các nghiên cứu cho tương lai, loại bỏ các rủi ro có thể xảy ra cho ngành công nghiệp đang xem xét trong vòng 10 tới 15 năm, theo như thông tin từ các nhà quản trị hiện tại và trong quá khứ của Koch, bao gồm Brad Hall, người lãnh đạo nhóm này vào cuối những năm 90.

Nhóm phát triển này sau đó sẽ vẽ các biểu đồ thể hiện các trường hợp có thể xảy ra, với các trường hợp có xác xuất cao nhất ở giữa và các trường hợp có xác suất thấp nhất, “thiên nga đen” ở rìa. Nếu như trường hợp có xác suất xảy ra cao nhất sinh lợi, Koch sẽ đầu tư.

Đầu những năm 2000, mảng kinh doanh phân bón khá nhỏ bé của Koch được đánh giá bằng phương pháp này. Steve Packbush, một nhân viên trẻ tuổi trong nhóm, được phân công vào nhóm phân tích chuỗi cung ứng toàn cầu và xu hướng nhu cầu cho phân bón.

Vào thời điểm đó Koch chỉ sở hữu một nhà máy nhỏ với một vài đường ống dẫn các nguyên liệu sản xuất. Sau đó, vào năm 2002, giá khí thiên nhiên tăng mạnh, làm tăng giá thành sản xuất phân đạm và làm cho các công ty kiểu như Farmland lâm vào nguy khốn. Phân đạm có vẻ như một loại hàng hóa nông nghiệp, nhưng thực ra nó là một sản phẩm năng lượng vì đầu vào chủ yếu là khí thiên nhiên.

Nhóm của Packebush nhìn thấy cơ hội tăng đột biến giá và khuyến nghị Koch tận dụng lợi thế của biến động thị trường và mua thêm nhiều nhà máy phân bón hơn. Vào thời điểm đó ngành công nghiệp phân bón của Mỹ đang trong tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng và khoảng 40% sản lượng phân bón của họ không bán đi được.

Điều đó có nghĩa là nhà máy nào còn tồn tại chứng tỏ nó có năng suất hàng đầu và sẽ được nhiều lợi ích khi ngành công nghiệp này khởi sắc, Packebush nói. Các nhà máy sản xuất phân bón của Farmland đặc biệt hấp dẫn vì chúng nằm trong Vành Đai Ngô, trải dài từ Oklahoma tới Inowa. Vị trí này giúp các nhà máy có một chút lợi thế về giá so với phân bón nhập khẩu vì phân bón nhập khẩu phải được chuyển về từ vùng vịnh duyên hải.

Charles Koch và hội đồng quản trị đã đồng ý đầu tư vào kinh doanh phân bón khi thời cơ đến. Vì vậy năm 2003, Packebush đến buổi đấu giá tại trụ sở của Farmland và trả giá cao hơn Agrium. Koch giành được các nhà máy phân bón với mức giá rẻ hơn thực tế trong một vụ thu mua trị giá 293 triệu USD. Koch nhanh chóng áp dụng “năng lực cốt lõi” của họ vào việc kinh doanh bằng việc đầu tư khoảng 500 triệu USD trong vòng một thập kỷ để nâng cấp các nhà máy phân bón và cơ sở hạ tầng khác, đồng thời vận hành chúng với cùng hiệu suất như các nhà máy lọc dầu của họ.

Sau đó Koch Fertilizer phát triển vượt bậc nhờ một sự kiện mà không ai ngờ tới. Bắt đầu từ năm 2008,công nghệ thủy lực – fracking khai thông trữ lượng lớn khí đốt tự nhiên tại Mỹ. Nguồn cung tăng và giá giảm mạnh. Koch đã bất ngờ mua được nguyên liệu chính của mình với giá chỉ bằng một nửa số tiền mà Farmland trả khi họ phá sản.

Tuy nhiên, giá phân bón bán lẻ vẫn ở mức cao vì giá ngô cao kỷ lục đã thúc đẩy nông dân cố gắng mua càng nhiều phân bón họ có thể dùng được càng tốt. Lợi nhuận của Koch đến từ giá khí thiên nhiên đầu vào rẻ còn giá phân bón thành phẩm mắc.

Sự kết hợp giữa may mắn và kỹ năng đã giúp Koch Fertilizer trở thành một trong những ngành lớn nhất và quan trọng nhất của công ty. CFO của Koch – Feilmeier cho biết kinh doanh nông nghiệp là một trong các lĩnh vực hàng đầu mà Koch sẽ tìm cách mở rộng trong những năm tới và bộ phận kinh doanh phân bón có thể kiếm được nhiều thương vụ.

“Kinh doanh phân bón đang là trung tâm của ngành nông nghiệp.” Feilmeier nói. “Vấn đề mà thế giới đối mặt là: hiện nay chúng ta có dân số 7 tỷ người và dự đoán là con số này sẽ lên đến 9 tỷ vào năm 2030 đúng không? Vậy làm thế nào chúng ta có thể cung cấp lương thực cho chừng đó người?”
(Còn tiếp)
Mai Nguyễn
Theo Trí Thức Trẻ/Fortune
>> Thế hệ mới gia đình Koch: Phát triển thành tập đoàn đầu tư tư nhân (P.2)
>> Thế hệ mới gia đình Koch: Tập đoàn tư nhân lớn nhất Hoa Kỳ (P.1)


Share:

Thế hệ mới gia đình Koch: Phát triển thành tập đoàn đầu tư tư nhân (P.2)

Khởi nguồn từ công ty trong ngành dầu khí với doanh thu 200 triệu USD, ngày nay Koch Industries có mặt trong tất cả những ngành xương sống của nền kinh tế Hoa Kỳ với mức doanh thu 115 tỷ USD. Tất cả là nhờ vào người đứng đầu: Charles Koch.


Khởi nguồn là một công ty trong ngành dầu khí, ngày nay Koch hoạt động như là một quỹ đầu tư vào các công ty tư nhân. Họ sở hữu một lượng tiền mặt khổng lồ nhằm phục vụ nhu cầu đầu tư vào các công ty có tiềm năng tạo ra lợi nhuận lâu dài. Khi công ty tiến vào một lĩnh vực mới, họ vạch ra chiến lược cụ thể và kiên trì theo đuổi.

Một ví dụ là chỉ 10 năm trước, Koch chỉ mới là một tay ngang trong ngành sản xuất phân bón. Sau đó, họ âm thầm thực hiện một loạt các vụ đầu tư và từ đó trở thành công ty sản xuất và phân phối phân bón lớn thứ 3 trên toàn Hoa Kỳ. Hiện nay, Koch giữ vai trò quan trọng trong hệ thống cung ứng thực phẩm toàn cầu – một vị thế mà công ty coi là tiên phong cho các hoạt động đầu tư khác trong lĩnh vực kinh doanh sản phẩm nông nghiệp.

Để hiểu rõ thêm về chiến lược và phương pháp của Koch, tạp chí Fortune đã bỏ ra hàng tháng trời để phỏng vấn các nhà quản lý trước đây và hiện tại của công ty này, tham khảo các tài liệu sẵn có và thảo luận với các đối thủ của họ. Fortune đã rút ra kết luận Koch là một tổ chức hoạt động vô cùng nguyên tắc, có kế hoạch rõ ràng để xây dựng vai trò của mình trong các lĩnh vực phân phối điện, thực phẩm, công nghệ và trong tương lai gần xâm nhập vào lĩnh vực cung cấp nước.

Tất cả những thành tựu này phần lớn nhờ vào trí óc của một người: Charles Koch. Người ta thường cho rằng anh em nhà Koch là một thực thể duy nhất, sự thật là David, 73 tuổi, người em, chỉ đóng vai trò mờ nhạt trong công ty. David giữ chức phó chủ tịch điều hành, nhưng ông sống nhiều năm tại New York và dành phần lớn thời gian cho các hoạt động xã hội như từ thiện.

Năm 2008, ông tài trợ cho Lincoln Center 100 triệu USD và được đặt tên cho một rạp hát. Charles, 78 tuổi, sống tại Wichita và giữ chức vụ CEO kiêm chủ tịch công ty từ cha ông, Fred Koch, người đã mất vào năm 1967. Charles và David Koch đã từ chối phỏng vấn cho bài báo này.

Nhìn vào sự phát triển của Koch, ta có thể kết luận Charles là một trong những nhà quản trị tài ba nhất nửa sau thế kỷ 20. Khi ông lên nắm quyền khoảng 50 năm về trước, doanh thu của Koch vào khoảng 200 triệu USD (hiện nay là 115 tỷ USD). Ông xây dựng công ty dần dần dựa trên nền móng của cha ông.

Fred Koch vốn là con của một người Hà Lan di cư, theo học ngành kỹ sư tại MIT – Học Viện Kỹ Thuật Massachusetts và sáng tạo ra phương pháp mới để chuyển dầu mỏ thành xăng vào cuối những năm 20 của thế kỷ 20. Ông đã làm việc cho Liên Xô dưới thời Joseph Stalin một khoảng thời gian trước khi quay về Hoa Kỳ để thành lập công ty lọc dầu của mình vào năm 1940. Vốn là một thành viên của Hội John Birch, Fred đã truyền lại quan điểm bảo thủ cho các con mình, cả 4 người con.

Người em song sinh của David, Bill là một doanh nhân và là một thủy thủ, người đã thắng cuộc thi thuyền buồm Hoa Kỳ vào năm 1992 và gần đây thường xuất hiện trên truyền thông tuyên truyền chống việc lắp đặt các tuốc bin gió tại bờ biển Cape Cod. Người anh cả, Frederick, năm nay 80 tuổi là một nhà sưu tập và nhà từ thiện.

Vào năm 1983, Charles và David mua lại cổ phần của Bill và Frederick trong công ty với giá trị chỉ hơn 1 tỷ USD – gây ra một mối thù hằn day dẳn trong gia đình này, cuối cùng vào cuối những năm 90 của thế kỷ 20, Bill và Frederick đã đâm đơn kiện vì cho rằng họ đã bị ép giá, vụ việc kết thúc vào năm 2001 với một thỏa thuận hòa giải không được tiết lộ.

Cơ cấu của Koch Industries ngày nay hoàn toàn khác so với thời Fred mới sáng lập công ty. Họ có một bộ phận trung ương, với tên gọi chính thức là Koch Equity Development, báo cáo trực tiếp cho Charles và những lãnh đạo cao cấp khác, là bộ phận vạch ra chiến lược, đánh giá những thương vụ tiềm năng trong khoản 10 đến 15 năm.

Công ty cũng có những bộ phận phát triển nhỏ khác trong nội bộ tập đoàn, chẳng hạn như Koch Fertilizer và Koch Minerals. Những bộ phận này liên tục theo dõi tình hình hoạt động trong ngành kinh doanh của mình, gửi thông tin ngược về cho bộ phận trung ương. Hàng năm, Koch bỏ ra khoảng 100 triệu USD cho hoạt động nghiên cứu của các nhóm phát triển này, theo Feilmeier.

Công ty cũng thúc đẩy các hoạt động tình báo công nghiệp – chẳng hạn như trong hoạt động giao dịch hàng hóa cơ bản của họ. Koch là công ty giao dịch hàng hóa cơ bản lớn thứ 4 trên thế giới với địa điểm giao dịch tại Houston, New York, Geneva, Singapore và Wichita, theo xếp hạng năm 2011 của hãng thông tấn Reuters.

Các giao dịch viên của Koch mua và bán các hợp đồng kỳ hạn cho nhiều loại hàng hóa từ dầu mỏ, bạc cho tới nước cam ép. Ngoài nhiệm vụ tạo ra lợi nhuận kinh doanh, các giao dịch viên của Koch còn thu thập thông tin thị trường, theo lời các nhân viên cao cấp trong bộ phận thương mại. Các thông tin này giúp Koch trong công cuộc tìm kiếm các thương vụ mới và các công ty có tiềm năng để mua lại.

Ví dụ, theo một giao dịch viên có thâm niên, bộ phận thương mại của Koch bắt đầu mua bán các sản phẩm hóa dầu được gọi là olefins vào cuối những năm 90 bởi vì thị trường khá im ắng và phù hợp để mua vào. Vào năm 2007, Koch mua lại một số nhà máy sản xuất olefin từ tập đoàn Huntsman Corp., một phần trong thương vụ 700 triệu USD. Thương vụ này, theo một khía cạnh nào đó, dựa khá nhiều vào phân tích thị trường olefin thực hiện bởi các giao dịch viên.

Mỗi bộ phận chính yếu của Koch cập nhật cho Charles và các lãnh đạo khác mỗi quý tình hình kinh doanh của bộ phận mình. Các cuộc họp này hoàn toàn không hề chiếu lệ. Mỗi đơn vị kinh doanh đều có khả năng bị bán đi bất kỳ lúc nào, và các trưởng bộ phận luôn biết điều đó. Họ không dám xào nấu hay giấu diếm những sai sót khi báo cáo cho Charles Koch. Ông ta có thể vạch mặt họ chỉ với một câu hỏi đơn giản.

“Rất căng thẳng”, Jeremy Jones, phó chủ tịch quỹ đầu tư mạo hiểm nội bộ tập đoàn Koch từ năm 2007 đến năm 2009, người làm việc thường xuyên với nhóm phát triển trung ương của tập đoàn Koch. Jones đã nhận ra sự căng thẳng này khi ông đề xuất đầu tư vào lĩnh vực nhiêu liệu sinh học với Charles.

Sau khi Jones trình bày, Charles bắt đầu “quay” ông bằng một kiểu cách logic. Liệu Jones đã cân nhắc đến một thực tế là ethanol chỉ cấu thành 66.7% năng lượng trong xăng? Liệu những dự đoán của Jones có tính đến quy định của chính phủ về sử dụng ethanol có thể thay đổi? Jones nhớ lại. “Phân tích của tôi dựa trên những giả định sai lầm. Ông ta đã nhanh chóng nhận ra. Nếu như bạn không biết điều gì, tốt hơn hết hãy nói với ông ta là bạn không biết. Đừng cố vòng vo”.
(Còn tiếp)
Mai Nguyễn
Theo Trí Thức Trẻ/Fortune
>> Thế hệ mới gia đình Koch: Tập đoàn tư nhân lớn nhất Hoa Kỳ (P.1)

Share:

Thứ Sáu, 16 tháng 10, 2015

Thế hệ mới gia đình Koch: Tập đoàn tư nhân lớn nhất Hoa Kỳ (P.1)

Anh em nhà Koch là điển hình cho câu chuyện thành công của công ty gia đình với câu nói: Thế hệ thứ 1 gầy dựng, thế hệ thứ 2 phát triển. Dưới bàn tay của họ, Koch Industries từ công ty dầu trở thành tập đoàn đa ngành với quy mô lớn hơn cả Google, Goldman Sachs và Kraft Foods gộp lại.

http://www.blogchungkhoan.com/2015/09/mo-tai-khoan-tu-van-au-tu-chung-khoan.html#.ViCCnm5mqsW
Charles (bên trái) và David Koch cùng phát triển công ty mà cha họ đã gầy dựng. 
Koch Industries từng được xem là một công ty dầu. Nhưng đế chế kinh doanh được lãnh đạo bởi 2 tỷ phú là Charles và David Koch đã mở rộng, tham gia vào những ngành công nghiệp tối quan trọng như thực phẩm, cung cấp nước sạch và công nghệ cá nhân.

Trụ sở Tập đoàn Koch Industries không phải là một nơi mà bạn hay hình dung về một tập đoàn tiên phong trong công nghệ, nằm cách thung lũng Silicon 1.600 dặm với văn hóa và tư tưởng chính trị hoàn toàn cách biệt. Tọa lạc tại rìa tây bắc của Wichita, một vùng với nhiều đồng cỏ hơn là đường phố, trụ sở của tập đoàn tư nhân lớn nhất Hoa Kỳ này đã phát triển qua nhiều năm để trở thành trung tâm của một đế chế trong ngành dầu khí.

Khác với vẻ ngoài, khi được hỏi về tương lai của nền kinh tế Hoa Kỳ, CFO của Koch là Steve Feilmeier đã tuôn ra một tràng độc thoại về viễn cảnh tươi sáng của các ngành công nghệ cao, trong khi đang cầm trong tay một chiếc điện thoại cũ kỹ từ thế kỷ trước, nổi bật trong văn phòng khá khiêm tốn so với chức vụ của ông. “Có những thứ rất nhỏ bé giống như chiếc điện thoại BlackBerrys này đã không tồn tại khoảng 8 đến 10 năm về trước. Kỹ thuật mới đã nâng cao đáng kể chất lượng cuộc sống của chúng ta. Sự cải tiến này vẫn đang tiếp diễn, một cách nhanh chóng.”

Đầu tháng 12, Koch Industries đã có một vụ đầu tư lớn thể hiện niềm tin vào tương lai của ngành công nghệ cao đó khi bỏ ra 7,2 tỷ USD mua lại Molex, công ty sản xuất linh kiện điện tử toàn cầu có trụ sở chính ở Lisle – Hoa Kỳ. Molex sản xuất linh kiện cho nhiều loại thiết bị, bao gồm iPhones, và có cổ phiếu niêm yết trên sàn giao dịch Nasdaq trước khi vụ mua lại diễn ra.

Koch nhìn thấy tiềm năng của Molex để dự phần trong cuộc cách mạng Internet vạn vật – IoT đang diễn ra. Feilmeier, một người đàn ông cường tráng ở độ tuổi 52, có thời gian từng làm huấn luyện viên cho đội bóng bầu dục tại trường đại học.

Ông bình luận về vụ mua lại như sau: “Hãy nhìn xem các thiết bị cảm ứng và kết nối phát triển như thế nào trong thời điểm hiện tại.Chúng tôi mua lại Molex vì họ được vận hành theo phương thức phù hợp với sự phát triển của công nghệ, hướng tới công nghệ ngày càng dễ sử dụng, tạo ra máy móc được kết nối và giữ vai trò chủ động hơn, dù cho đó là người máy hay dây chuyền tự động hóa, hay một thứ xe đa năng, biết nói chuyện và cảnh báo tai nạn. Chúng tôi nghĩ Molex sẽ giữ vị trí quan trọng trong bức tranh phát triển đang được vẽ nên”.

Feilmeier vạch ra tương lai của Molex trong vòng một thập kỷ tới với doanh thu tăng từ 3,6 tỷ USD lên 10 tỷ USD, đồng thời chia sẻ rằng họ sẽ mua lại thêm nhiều công ty công nghệ có quy mô nhỏ hơn khác. “Chúng tôi không chỉ mua lại để sở hữu các công ty hoặc công nghệ của họ để thâm nhập vào thị trường mới, chúng tôi còn mong muốn giúp các công ty này phát triển.”

Ngưởi ta thường nghe tới tên Koch (phát âm là “coke”) bởi vì các hoạt động chính trị của hai cổ đông chính là – hai anh em Charles và David Koch. Nhờ vào sự phát triển to lớn của công ty gia đình mà cha họ, Fred, đã sáng lập ra 70 năm về trước, anh em nhà Koch thuộc vào hàng những người giàu nhất thế giới vào thời điểm hiện tại. Mỗi người sở hữu khối tài sản ròng trị giá 36 tỷ USD hoặc hơn, và khi gia sản tăng, họ dùng tiền của mình để tạo ra ảnh hưởng chính trị tại Hoa Kỳ.

Anh em nhà Koch là những người theo chủ nghĩa tự do nhiệt thành: David là ứng viên Phó Tổng thống của Đảng Tự Do vào năm 1980, với tư tưởng chống cường quyền và theo một số người là chống lại những quy định làm ảnh hưởng đến khả năng sinh lời trong lĩnh vực kinh doanh của họ. Anh em nhà Koch cũng chi tiền tài trợ một số nhóm sáng lập Đảng Trà (Tea Party).

Một trong những nỗ lực chính của họ là việc thành lập tổ chức American for Properity, tổ chức đã châm ngòi cho một loạt các cuộc tranh luận về chính trị - từ phản đôi chính sách bảo hiểm Obamacare cho đến chỉ trích việc lạm quyền của các tổ chức công đoàn trong lĩnh vực kinh tế công tại Winconsin.

Theo một nghiên cứu mới đây từ Center for Public Integrity, AFP đã chi tổng cộng 122 triệu USD cho các hoạt động của mình trong năm 2012. Nhưng con số này vẫn chưa phải là tất cả chi tiêu cho hoạt động chính trị của nhà Koch. Họ bỏ ra hàng chục triệu USD để tài trợ cho một hệ thống các tổ chức bảo thủ. Với chừng đó bề dày thành tích chính trị, họ đã trở thành những người có máu mặt trong các phong trào ái quốc ở Hoa Kỳ - một dạng ông kẹ đối với những người theo chủ nghĩa thiên tả.

Hoạt động chính trị nổi bật của nhà Koch phần nào làm lu mờ quá trình vươn lên thành một tập đoàn đa ngành khổng lồ của họ. Nếu Koch Industries đủ điều kiện xét duyệt trong danh sach Fortune 500, họ sẽ xếp thứ 17 với doanh thu 115 tỷ USD, lớn hơn cả Google, Goldman Sachs và Kraft Foods gộp lại. Quy mô của công ty đã được nhân lên gấp đôi trong vòng một thập kỷ vừa qua. Koch không chỉ quan trọng vì quy mô của nó.

Theo đà phát triển của mình, công ty này lấn sang những lĩnh vực kinh doanh mới và gắn chặt với nhiều khách hàng. Koch sở hữu nhiều thương hiệu nổi tiếng như thảm Stainmaster và sau khi họ mua lại Geogia – Pacific với giá 22 tỷ USD vào năm 2005, danh sách thương hiệu của họ còn có thêm giấy vệ sinh Quilted Northern, Brawny và cốc Dixie.
(Còn tiếp)
Mai Nguyễn
Theo Trí Thức Trẻ/Fortune
Share:

Thứ Sáu, 24 tháng 7, 2015

10 cặp vợ chồng giàu nhất thế giới

Danh sách 10 cặp vợ chồng có tài sản ròng lớn nhất thế giới do hãng nghiên cứu Wealth-X thực hiện, Business Insider giới thiệu...


<b>10. James và Lynne Walton</b><br><br><i>Tổng tài sản: 36,2 tỷ USD</i><br><br>James Walton là con trai út của Samuel Walton, người sáng lập tập đoàn bán lẻ lớn nhất thế giới Wal-Mart. Sau khi người anh trai John Walton qua đời vào năm 2005, James Walton gia nhập Hội đồng Quản trị của tập đoàn có 2,2 triệu nhân viên này.<br><br>Cặp đôi James và Lynne Walton rất ít khi xuất hiện trên báo chí, nhưng lại là những nhà từ thiện tích cực. Năm 2013, quỹ từ thiện The Walton Family Foundation của gia tộc Walton đã tài trợ số tiền 300 triệu USD cho các hoạt động từ thiện.
10. James và Lynne Walton

Tổng tài sản: 36,2 tỷ USD

James Walton là con trai út của Samuel Walton, người sáng lập tập đoàn bán lẻ lớn nhất thế giới Wal-Mart. Sau khi người anh trai John Walton qua đời vào năm 2005, James Walton gia nhập Hội đồng Quản trị của tập đoàn có 2,2 triệu nhân viên này.

Cặp đôi James và Lynne Walton rất ít khi xuất hiện trên báo chí, nhưng lại là những nhà từ thiện tích cực. Năm 2013, quỹ từ thiện The Walton Family Foundation của gia tộc Walton đã tài trợ số tiền 300 triệu USD cho các hoạt động từ thiện.
<b>9. Mark Zuckerberg và Priscilla Chan</b><br><br><i>Tổng tài sản: 38,5 tỷ USD</i><br><br>Cách đây 10 năm, khi đang là sinh viên năm thứ hai Đại học Harvard, Mark Zuckerberg - nhà sáng lập mạng xã hội Facebook - gặp Priscilla Chan tại một buổi tiệc. Họ nhanh chóng cảm mến nhau và nên duyên vợ chồng 9 năm sau đó.<br><br>Chan, một bác sỹ nhi khoa, và Zuckerberg mới đây đã tài trợ 75 triệu USD cho một bệnh viện đa khoa ở San Francisco. Về phần mình, Zuckerberg chỉ nhận lương 1 USD/năm tại Facebook từ năm 2013 đến nay.
9. Mark Zuckerberg và Priscilla Chan

Tổng tài sản: 38,5 tỷ USD

Cách đây 10 năm, khi đang là sinh viên năm thứ hai Đại học Harvard, Mark Zuckerberg - nhà sáng lập mạng xã hội Facebook - gặp Priscilla Chan tại một buổi tiệc. Họ nhanh chóng cảm mến nhau và nên duyên vợ chồng 9 năm sau đó.

Chan, một bác sỹ nhi khoa, và Zuckerberg mới đây đã tài trợ 75 triệu USD cho một bệnh viện đa khoa ở San Francisco. Về phần mình, Zuckerberg chỉ nhận lương 1 USD/năm tại Facebook từ năm 2013 đến nay.
<b>8. Bernard Arnault và Helene Mercier-Arnault</b><br><br><i>Tổng tài sản: 38,7 tỷ USD</i><br><br>Arnault là Giám đốc điều hành (CEO) của hãng đồ hiệu Moët Hennessy Louis Vuitton (LVMH), sở hữu trong tay khoảng 60 thương hiệu đình đám thế giới như Louis Vuitton, Givenchy, Marc Jacobs... Tỷ phú này và vợ, một nghệ sỹ piano chơi trong dàn nhạc giao hưởng, là những người say mê sưu tầm các tác phẩm nghệ thuật.
8. Bernard Arnault và Helene Mercier-Arnault

Tổng tài sản: 38,7 tỷ USD

Arnault là Giám đốc điều hành (CEO) của hãng đồ hiệu Moët Hennessy Louis Vuitton (LVMH), sở hữu trong tay khoảng 60 thương hiệu đình đám thế giới như Louis Vuitton, Givenchy, Marc Jacobs... Tỷ phú này và vợ, một nghệ sỹ piano chơi trong dàn nhạc giao hưởng, là những người say mê sưu tầm các tác phẩm nghệ thuật.
<b>7. Jeff và MacKenzie Bezos</b><br><br><i>Tổng tài sản: 38,9 tỷ USD</i><br><br>Bà Bezos gặp người chồng tương lai của mình khi làm việc cho ông tại quỹ đầu cơ D.E. Shaw ở New York vào năm 1992. Hai năm sau, họ kết hôn và lên kế hoạch thành lập công ty bán lẻ trực tuyến Amazon.com trong chuyến hành trình di chuyển tới thành phố Seatle. Là một trong những công ty thương mại điện tử lớn nhất thế giới hiện nay, Amazon.com hiện có giá trị vốn hóa 175 tỷ USD.
7. Jeff và MacKenzie Bezos

Tổng tài sản: 38,9 tỷ USD

Bà Bezos gặp người chồng tương lai của mình khi làm việc cho ông tại quỹ đầu cơ D.E. Shaw ở New York vào năm 1992. Hai năm sau, họ kết hôn và lên kế hoạch thành lập công ty bán lẻ trực tuyến Amazon.com trong chuyến hành trình di chuyển tới thành phố Seatle. Là một trong những công ty thương mại điện tử lớn nhất thế giới hiện nay, Amazon.com hiện có giá trị vốn hóa 175 tỷ USD.
<b>6. Wang Jianlin và Ning Lin</b><br><br><i>Tổng tài sản: 40,7 tỷ USD<br></i><br>Vào năm 1986, Wang Jianlin vay 80.000 USD để mở công ty bất động sản tư nhân Dalian Wanda Group. Gần 30 năm sau, ông trở thành người giàu nhất Trung Quốc và đã thực hiện một loạt vụ thâu tóm hàng tỷ USD ở nước ngoài. Vợ ông, bà Ning Lin, hiện là Chủ tịch của Lin Investment, một công ty hoạt động trong các lĩnh vực xây dựng, thiết kế nội thất, dịch vụ ăn uống... khắp Trung Quốc.
6. Wang Jianlin và Ning Lin

Tổng tài sản: 40,7 tỷ USD
Vào năm 1986, Wang Jianlin vay 80.000 USD để mở công ty bất động sản tư nhân Dalian Wanda Group. Gần 30 năm sau, ông trở thành người giàu nhất Trung Quốc và đã thực hiện một loạt vụ thâu tóm hàng tỷ USD ở nước ngoài. Vợ ông, bà Ning Lin, hiện là Chủ tịch của Lin Investment, một công ty hoạt động trong các lĩnh vực xây dựng, thiết kế nội thất, dịch vụ ăn uống... khắp Trung Quốc.
<b>5. Charles và Elizabeth Koch</b><br><br><i>Tổng tài sản: 47,4 tỷ USD</i><br><br>Charles Koch và 3 người anh em trai thừa kế cơ sở kinh doanh của người cha từ năm 1967. Năm 1983, Charles và người em trai David mua lại cổ phần của 2 người anh em còn lại với giá 1 tỷ USD. Ngày nay, Charles nắm 42% cổ phần của công ty, đồng thời giữ vai trò Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành (CEO). Vợ ông, bà Elizabeth, cũng làm trong công ty của chồng và cùng chồng tham gia nhiều hoạt động từ thiện.
5. Charles và Elizabeth Koch

Tổng tài sản: 47,4 tỷ USD

Charles Koch và 3 người anh em trai thừa kế cơ sở kinh doanh của người cha từ năm 1967. Năm 1983, Charles và người em trai David mua lại cổ phần của 2 người anh em còn lại với giá 1 tỷ USD. Ngày nay, Charles nắm 42% cổ phần của công ty, đồng thời giữ vai trò Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành (CEO). Vợ ông, bà Elizabeth, cũng làm trong công ty của chồng và cùng chồng tham gia nhiều hoạt động từ thiện.
<b>4. David và Julia Koch</b><br><br><i>Tổng tài sản: 47,5 tỷ USD<br></i><br>David và Julia Koch gặp nhau lần đầu vào năm 1991, khi David 50 tuổi còn Julia mới 27 tuổi. Năm 1996, họ kết hôn và sinh 3 người con. Hiện Julia là giám đốc của một trường dạy múa, còn David là Phó chủ tịch của tập đoàn Koch Industries. <br>
4. David và Julia Koch

Tổng tài sản: 47,5 tỷ USD
David và Julia Koch gặp nhau lần đầu vào năm 1991, khi David 50 tuổi còn Julia mới 27 tuổi. Năm 1996, họ kết hôn và sinh 3 người con. Hiện Julia là giám đốc của một trường dạy múa, còn David là Phó chủ tịch của tập đoàn Koch Industries.
<b>3. Warren Buffett và Astrid Menks</b><br><br><i>Tổng tài sản: 65 tỷ USD</i><br><br>Nhà đầu tư huyền thoại Warren Buffett ly thân với người vợ đầu tiên Susan vào năm 1977. Sau đó, chính bà Susan lại là người giới thiệu Buffett với Astrid Menks. Cả ba người là bạn bè của nhau cho tới khi Susan qua đời vào năm 2004. Trước khi kết hôn với Chủ tịch kiêm CEO của tập đoàn Berkshire Hathaway, Astrid là một nhân viên chạy bàn.
3. Warren Buffett và Astrid Menks

Tổng tài sản: 65 tỷ USD

Nhà đầu tư huyền thoại Warren Buffett ly thân với người vợ đầu tiên Susan vào năm 1977. Sau đó, chính bà Susan lại là người giới thiệu Buffett với Astrid Menks. Cả ba người là bạn bè của nhau cho tới khi Susan qua đời vào năm 2004. Trước khi kết hôn với Chủ tịch kiêm CEO của tập đoàn Berkshire Hathaway, Astrid là một nhân viên chạy bàn.
<b>2. Amancio Ortega Gaona và Flora Perez</b><br><i><br>Tổng tài sản: 70,7 tỷ USD</i><br><br>Tỷ
 phú bán lẻ Amancio Ortega và người vợ thứ hai của ông, bà Flora Perez, 
gặp nhau lần đầu tiên cách đây 2 thập niên khi bà Perez là nhân viên tại
 công ty của ông Ortega. Hiện bà Perez là một thành viên Hội đồng Quản 
trị của tập đoàn Inditex.<br><br>Tuy nhiên, người vợ đầu tiên của Ortega
 mới là người cùng ông gây dựng nên công ty thời trang Zara vào năm 
1975. Về sau, công ty này phát triển thành Inditex, một trong những tập 
đoàn bán lẻ thời trang lớn nhất thế giới. <br>
2. Amancio Ortega Gaona và Flora Perez

Tổng tài sản: 70,7 tỷ USD


Tỷ phú bán lẻ Amancio Ortega và người vợ thứ hai của ông, bà Flora Perez, gặp nhau lần đầu tiên cách đây 2 thập niên khi bà Perez là nhân viên tại công ty của ông Ortega. Hiện bà Perez là một thành viên Hội đồng Quản trị của tập đoàn Inditex.

Tuy nhiên, người vợ đầu tiên của Ortega mới là người cùng ông gây dựng nên công ty thời trang Zara vào năm 1975. Về sau, công ty này phát triển thành Inditex, một trong những tập đoàn bán lẻ thời trang lớn nhất thế giới.
<b>1. Bill và Melinda Gates</b><br><i><br>Tổng tài sản: 85,7 tỷ USD</i><br><br>Melinda Gates bắt đầu làm việc tại Microsoft vào năm 1987, quen Bill Gates sau đó, và cặp đôi kết hôn vào năm 1994. Họ có 3 người con và những người con của nhà Gates đều bị cấp sử dụng các sản phẩm của Apple. <br><br>Hiện nay, cặp vợ chồng này dành phần lớn thời gian cho hoạt động từ thiện. Cùng với tỷ phú Warren Buffett, Bill Gates là người đưa ra sáng kiến Giving Pledge, quy tụ hơn 130 tỷ phú cùng cam kết sẽ hiến tặng ít nhất một nửa tài sản cho từ thiện.<br>1. Bill và Melinda Gates

Tổng tài sản: 85,7 tỷ USD


Melinda Gates bắt đầu làm việc tại Microsoft vào năm 1987, quen Bill Gates sau đó, và cặp đôi kết hôn vào năm 1994. Họ có 3 người con và những người con của nhà Gates đều bị cấp sử dụng các sản phẩm của Apple.

Hiện nay, cặp vợ chồng này dành phần lớn thời gian cho hoạt động từ thiện. Cùng với tỷ phú Warren Buffett, Bill Gates là người đưa ra sáng kiến Giving Pledge, quy tụ hơn 130 tỷ phú cùng cam kết sẽ hiến tặng ít nhất một nửa tài sản cho từ thiện.
(Vneconomy) 
>> Những cặp vợ chồng đang "điều khiển" kinh tế thế giới

Share:

Thứ Sáu, 26 tháng 6, 2015

Đường đua tỷ phú (K2): Những kẻ buôn vua

Dù cho đến nay Hoa Kỳ vẫn chưa có một vị tổng thống tỷ phú nào, nhưng những cuộc đua tổng thống ở xứ cờ hoa luôn chịu sự thao túng của các tỷ phú, những người tung tiền ủng hộ một ứng cử viên nào đó, để dễ bề thao túng chính trường một khi ứng viên đó trở thành người quyền lực nhất hành tinh.

Từ Cộng hòa

Trong số báo ngày 20-4, tờ New York Times (NYT) cho biết 2 anh em tỷ phú Charles G. và David H. Koch dường như sẽ ủng hộ Thống đốc bang Wiscosin Scott Walker chạy đua vào Nhà Trắng. Tờ báo cho biết tại một sự kiện gây quỹ ở Manhattan cho Đảng Cộng hòa, David Koch nói với các nhà tài trợ rằng ông và anh trai mình - những người sở hữu khối tài sản ước tính lên tới 100 tỷ USD - tin rằng ông Walker có thể là ứng viên được đề cử của Đảng Cộng hòa.

“Khi các cuộc bầu cử sơ bộ kết thúc và ông Walker được đề cử, anh em tôi sẽ ủng hộ ông” - ông David Koch nói. 2 người tham dự sự kiện nói với NYT họ còn nghe ông David Koch đi xa hơn khi cho biết ông Walker sẽ được Đảng Cộng hòa đề cử. Tuy nhiên, một phát ngôn viên của anh em tỷ phú phủ nhận điều đó. Dù vậy, NYT cho rằng không khó để biết được ai là “gà của nhà Koch”.

Trên báo USA Today ngày 21-4, Charles Koch lại nói rằng anh em ông sẽ ủng hộ 5 người chạy đua tổng thống, gồm Walker, Jeb Bush, Ted Cruz, Rand Paul và Marco Rubio. Ông cho biết gia đình ông sẽ ủng hộ nhiều ứng viên trước khi chọn một ứng viên duy nhất.

Một tỷ phú khác, ông trùm sòng bạc Sheldon Adelson với tài sản khoảng 32 tỷ USD, có thể dành sự ủng hộ cho nghị viên diều hâu ở Florida, ông Marco Rubio. Trong mùa tranh cử tổng thống năm 2012, ông Adelson được biết đã chi tới 100 triệu USD cho “gà” của mình.

Ông Adelson hiện là người giàu thứ 12 ở Hoa Kỳ, theo Forbes. Rubio được tỷ phú gốc Do Thái ưu ái vì có những phát ngôn mạnh mẽ ủng hộ Israel. Những nguồn tin thân cận của Adelson còn cho biết Rubio đã tiếp cận tỷ phú này nhiều hơn bất kỳ ứng viên tổng thống nào khác và đã đưa cho ông Adelson xem kế hoạch chi tiết về ngoại giao của ông một khi làm ông chủ Nhà Trắng.

“Kể từ khi vào Thượng viện năm 2011, Rubio đã gặp riêng ông trùm vài chục lần. Trong những tháng gần đây, cứ 2 tuần ông lại điện thoại cho Adelson 1 lần, cung cấp thông tin mới nhất về chiến dịch tranh cử của mình” - Politico viết. Rubio cũng nhận được sự ủng hộ từ tỷ phú đầu tư Paul Singer, với tài sản khoảng 1,92 tỷ USD; và tỷ phú Norman Braman, với tài sản 1,89 tỷ USD.

Những ứng viên khác của Đảng Cộng hòa, theo tờ The Atlantic, cũng có sự hậu thuẫn từ các tỷ phú hoặc triệu phú. Chẳng hạn, Jeb Bush được sự ủng hộ của tỷ phú Woody Johnson, người có tài sản ước tính 1,38 tỷ USD; Chris Christie, Thống đốc New Jersey, được sự ủng hộ của tỷ phú Ken Langone, người có tài sản khoảng 2,7 tỷ USD.

Đến Dân chủ

Bên Đảng Dân chủ, có lẽ bà Hillary Clinton đang là ứng viên có nhiều tỷ phú chống lưng nhất. Hãng tin Bloomberg ngày 1-2 cho biết các tỷ phú Alice Walton, George Soros và Marc Benioff nằm trong số những người đang ủng hộ cho cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ trong cuộc chạy đua vào Nhà Trắng.

Mỗi người trong các tỷ phú nêu trên đã ủng hộ ít nhất 25.000USD cho Hillary PAC, một tổ chức được thành lập cách nay 1 năm để kêu gọi sự ủng hộ cho chiến dịch tranh cử của bà Clinton năm 2016. Bloomberg cho biết trong năm 2014, Hillary PAC đã nhận được khoảng 4 triệu USD ủng hộ từ 30.000 nhà tài trợ. Hầu hết những người này đóng góp một khoản nhỏ, như 20,16USD, nhưng các tỷ phú Walton, Soros và Benioff là 3 trong số 33 người hoặc công ty đã ủng hộ từ 25.000USD trở lên.

Tính tới đầu năm nay, bà Clinton, 66 tuổi, vượt xa các ứng viên Đảng Dân chủ khác trong các cuộc thăm dò dư luận. Chẳng hạn, cuộc thăm dò của Washington Post-ABC News ngày 30-1 cho thấy bà nhận được tới 73% ủng hộ. Theo Chỉ số Tỷ phú Bloomberg, tỷ phú Walton là người giàu thứ 13 thế giới với tài sản 33,9 tỷ USD. Bà là con gái của nhà sáng lập chuỗi siêu thị Wal-Mart Stores Inc., Sam Walton.

Tỷ phú Benioff là CEO của Salesforce.com. Ông từng là người đóng góp nhiều nhất cho chiến dịch tái tranh cử của Tổng thống Obama năm 2012. Tỷ phú Soros là một huyền thoại trong giới đầu tư, ông cũng là một trong những nhà ủng hộ lớn nhất của Đảng Dân chủ nói chung. Ngoài các cá nhân, nhiều định chế/công ty đã ủng hộ rất lớn cho bà Clinton.

Theo số liệu của Open Secrets, Citigroup Inc đã ủng hộ tổng cộng 782.327USD, trong đó ủng hộ cá nhân bà Clinton 774.327USD, và các tổ chức ủng hộ bà 8.000USD; Goldman Sachs ủng hộ tổng cộng 711.490USD, trong đó ủng hộ bà 701.490USD và các tổ chức ủng hộ bà 10.000USD; DLA Piper ủng hộ tổng cộng 628.030USD; JPMorgan Chase & Co ủng hộ 620.919USD; EMILY's List ủng hộ 605.174USD; Morgan Stanley ủng hộ 543.065USD...

Kinh doanh giỏi, chính trị hay?

Sự ủng hộ của các tỷ phú hiển nhiên sẽ đi kèm với những thỏa thuận ngầm về các đối sách trong tương lai của vị tổng thống đắc cử. Vì vậy, Donald Trump đã nhấn mạnh rằng bản thân ông là tỷ phú, nên ông sẽ là một ứng cử viên không bị ảnh hưởng của người khác (xem Kỳ 1).
Nhiều người cũng hy vọng các tỷ phú sẽ trở thành những người điều hành đất nước, ngoài việc họ có thể độc lập về kinh tế, người ta hy vọng với tài kinh doanh, các tỷ phú sẽ giúp đẩy mạnh kinh tế nước nhà ở vị trí người điều hành cao nhất.

Tuy nhiên, các tỷ phú làm nguyên thủ có giỏi không? Vì Hoa Kỳ chưa có nguyên thủ tỷ phú, hãy nhìn xem một số nguyên thủ tỷ phú ở các nước khác. Đầu tiên, ông vua chocolate Petro Poroshenko được bầu Tổng thống Ukraine với hy vọng sẽ xoa dịu chiến tranh với Nga và bắt cầu với phương Tây. Ông cũng được kỳ vọng vực dậy nền kinh tế đang suy sụp của của Ukraine. Tuy nhiên, nhìn vào tình hình Ukraine hiện nay, có thể thấy tất cả kỳ vọng đó đã hoàn toàn sụp đổ.

“Bản thân Poroshenko là một doanh nhân mạnh mẽ, nhưng chính trị và kinh doanh là hoàn toàn khác nhau” - GS. Olexiy Haran của Đại học Quốc gia Kyiv-Mohyla Academy nói. Thứ hai, trường hợp của tỷ phú Thủ tướng Italia Silvio Berlusconi. Ông lãnh đạo đất nước từ năm 1994-2011 và Italia hiện là một trong những nước bị khủng hoảng ở châu Âu; bản thân Berlusconi bị dính nhiều bê bối, từ trốn thuế đến tình dục.

Rõ ràng cả nền chính trị và kinh tế ở Italia đều đi xuống sau thời gian dài dưới sự lãnh đạo của tỷ phú này. Hay nhìn sang Thái Lan, với tỷ phú truyền thông Thaksin Shinawatra. Sau thời lãnh đạo của ông Thaksin, Thái Lan liên tiếp rơi vào rắc rối chính trị, bản thân ông hiện phải sống lưu vong ở nước ngoài do trốn án cáo buộc tham nhũng ở quê nhà.
>> Nghề đầu tiên bình dị của các tỷ phú 
Theo Vĩnh Cẩm

Sài Gòn Đầu Tư
Share:

Trang

Nổi bật

Giới siêu giàu kiếm tiền từ đâu?