Kiến thức chứng khoán - Kinh nghiệm đầu tư chứng khoán

Hiển thị các bài đăng có nhãn Sam Walton. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Sam Walton. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 16 tháng 4, 2017

Từ hai bàn tay trắng đến khối gia tài 5 tỷ USD

Doanh nhân 61 tuổi Radhakishan Damani đang được nhiều người ví như Sam Walton (nhà sáng lập Wal-Mart) của Ấn Độ. Giống như Walton, ông là một tỷ phú tự thân có khởi đầu khiêm tốn, và thắng lớn nhờ xây dựng được một công thức thành công về bán lẻ.


Thành tựu lớn nhất của Damani chính là công ty Avenue Supermarts do ông sáng lập 15 năm về trước. Cuối tháng 3 vừa qua, Avenue đã có đợt IPO thành công tới nỗi rằng giá cổ phiếu của hãng đã tăng hơn gấp đôi chỉ trong phiên giao dịch đầu tiên ở sàn chứng khoán Mumbai.

Chiến lược chính của Avenue là mang lại giá cả thật rẻ (thấp hơn 6-7% so với các đối thủ) cho người tiêu dùng trên khắp Ấn Độ, bất kể họ muốn mua thực phẩm hay bột giặt. Hãng có rất nhiều địa điểm phục vụ cho những người sống ở vùng ngoại thành các đô thị lớn của Ấn Độ, và có nhiều không gian để xe cho những người phải đi xa.

Tới nay, Avenue không chỉ thành công trong việc chống lại mối đe dọa từ các hãng thương mại điện tử mà còn đang bỏ xa họ. Ngay cả những ông lớn như Amazon, vốn đã đầu tư 5 tỷ USD vào Ấn Độ, và công ty thương mại điện tử nội địa lớn nhất Ấn Độ là Flipkart vẫn chưa kiếm được đồng lợi nhuận nào ở quốc gia đông dân thứ nhì thế giới. Trong khi đó, Avenue Supermarts cho biết họ có lợi nhuận ròng sau thuế là 3,2 tỷ rupee (49,3 triệu USD) cho năm tài khóa kết thúc vào tháng 3 năm 2016.


Một siêu thị D-Mart của Avenue Supermarts. Ảnh: livemint.com


Arvind Singhal, chủ tịch hãng tư vấn bán lẻ Technopak Advisors, cho biết: “Chiến lược chi phí thấp được Sam Walton xây dựng cho chuỗi Wal-Mart cũng đã trở thành tiêu chuẩn của Damani, người đã gắn chặt điều này vào siêu thị Avenue của mình. Giống như Walton, Damani đã theo đuổi một công thức duy nhất, và chủ động bán rất nhiều hàng hóa mang thương hiệu riêng của công ty ngay từ đầu.”


Lên, lên nữa, lên mãi

Trong phiên giao dịch đầu tiên (21/3) sau khi IPO, giá cổ phiếu Avenue Supermarts đã có lúc tăng lên 650 rupee trước khi đóng phiên ở mức 641,6 rupee, cao hơn gấp đôi so với mức giá chào bán ban đầu là 299 rupee. Từ đó tới nay, giá cổ phiếu Avenue tiếp tục tăng và hiện ở mức 780 rupee, đưa giá trị vốn hóa thị trường của hãng lên khoảng 487 tỷ rupee (7,56 tỷ USD).

Có xuất thân khá khiêm tốn, Damani lớn lên trong một căn hộ chung cư nhỏ bé ở Mumbai, nhỏ tới mức chỉ có đúng 1 phòng. Lớn lên, ông trở thành một nhân viên buôn bán vòng bi. Ở tuổi 32, Damani trở thành một nhà môi giới chứng khoán khi ông thừa hưởng lại công ty nhỏ của cha mình cùng với anh trai, dù lúc đó ông còn không biết chứng khoán là gì.

Tuy nhiên, Damani đã chứng tỏ mình là một người có thể học hỏi rất nhanh. Sau vai thất bại đầu tay, ông bắt đầu phát triển khả năng phán đoán trước 5-10 năm tương lai của một công ty. Từ đó, Damani bắt đầu được xem là một “Warren Buffett của Ấn Độ”, với những chiến thắng vang dội khi đầu tư vào các công ty con tại Ấn Độ của các tập đoàn đa quốc gia như Gillette hay 3M.

Là người có lối nói chuyện nhẹ nhàng và ưa thích mặc quần áo trắng (tới nỗi ông mang luôn biệt danh “Mister White and White”), Damani luôn tránh xa sự chú ý của giới truyền thông, và hầu như không bao giờ trả lời báo chí. Năm 2001, ở tuổi 46, ông bất ngờ rút lui khỏi thị trường chứng khoán, và quay sang mở chuỗi siêu thị.

Từ chỗ là tay mơ, Damani giờ đây được xem là huyền thoại sống của làng chứng khoán Ấn Độ. Ảnh: business-standard.com


Ngày nay, tổng số tài sản mà gia đình Damani nắm giữ, trong đó có khoảng 60% cổ phần Avenue, là hơn 5 tỷ USD. Con số này vượt xa các tỷ phú đình đám khác của Ấn Độ như Ajay Piramal, Anil Ambani và Kapil Bhatia, theo số liệu của Bloomberg Billionaires Index.

Đánh mạnh vào ngoại thành

Hiện tại Avenue đang có chuỗi 129 siêu thị mang tên D-Mart tại hơn 40 thành phố của Ấn Độ, với giá trị lớn hơn nhiều đối thủ khác cộng lại.

Arun Kejriwal, giám đốc của công ty tư vấn đầu tư KRIS, cho biết các cửa hàng D-Mart thường phục vụ khách hàng ở các vùng ngoại thành và ven đô thị của Ấn Độ. Một nhân tố thành công quan trọng là hãng luôn chủ động mua lại đất đai trước khi giá bất động sản trong khu vực tăng lên. Thay vì đi thuê đất, Damani luôn chủ trương là sở hữu đất luôn, để bảo đảm lợi nhuận lâu dài.

Neville Noronha, CEO của Avenue Supermarts, cho biết: “Chúng tôi quan sát khách hàng để từ đó lên kế hoạch chuẩn bị cho họ”, và mô hình kinh doanh của D-Mart đã tiến hóa khá nhiều kể từ khi mở cửa hàng đầu tiên vào năm 2002.

Hãng chủ yếu tập trung vào việc mang lại giá thật rẻ hàng ngày cho mọi người, tương tư như Sam Walton đã làm với Wal-Mart. Avenue cũng thường xuyên thu mua hàng ở mức giá thấp, và tránh phụ thuộc vào các chương trình khuyến mãi lẻ tẻ. Để mua hàng ở giá thấp, Damani chủ trương xây dựng quan hệ thật tốt với các nhà cung cấp, cũng như thanh toán cho họ trong vòng vài ngày thay vì vài tuần như các đối thủ cạnh tranh.


Lợi nhuận của chuỗi D-Mart đã tăng vọt trong vài năm trở lại đây. Ảnh: cloudfront.net


Ngoài ra, Avenue cũng không bao giờ hối hả trong việc mở rộng, thay vào đó công ty phát triển theo hướng chậm mà chắc. Trong vài năm đầu tiên, Damani gần như không mở rộng chuỗi, mà chỉ có vài địa điểm, cốt để nghiên cứu và hiểu thật rõ thị trường trước khi bắt đầu mở hàng loạt. Kể từ lúc thành lập tới nay là 15 năm, năm nào công ty cũng có lãi, và chưa bao giờ phải đóng cửa một địa điểm nào.


Đi theo cốt lõi

Singhal của Technopak cho biết: “Các siêu thị D-Mart được bài trí rất giản dị. Trong khi các nhà bán lẻ khác đổ xô mở siêu thị trong các trung tâm mua sắm hào nhoáng, mở ra nhiều cửa hàng to nhỏ khác nhau và cố bành trướng ra toàn quốc, thì D-Mart luôn luôn đi theo những gì thật căn cơ”.

Không như các hãng bán lẻ Ấn Độ khác, D-Mart không buồn thuê những nhân sự nổi tiếng, trả lương cao hay đổ tiền vào tiếp thị và quảng cáo.

Singhal cho biết: “Damani không có một công thức ma thuật nào cả, những gì họ làm lẽ ra phải là quy tắc cơ bản cho mọi doanh nghiệp bán lẻ ở Ấn Độ”.

Các cửa hàng của D-Mart tuân theo một thiết kế đơn giản: lối đi rộng trên nền sàn lát gạch trắng và phía dưới là đèn ống huỳnh quang. Thang máy di chuyển người mua hàng và xe đẩy giữa các tầng, khu bán hàng tạp hóa và thực phẩm nằm dưới khu bán đồ gia dụng và thiết bị thể thao, còn quần áo và đồ nội thất được bố trí ở các tầng trên.

Dù ít địa điểm, nhưng doanh thu và lợi nhuận trên mỗi siêu thị D-Mart đều cao gấp nhiều lần đối thủ cạnh tranh Future Retail, và biên lợi nhuận cao hơn gấp gần 3 lần. Ảnh: Bloomberg


Đem lại giá trị cho khách hàng

Varsha Nilesh Benke, một nhân viên văn phòng 35 tuổi, cho biết: “D-Mart cung cấp cho tôi giá tốt nhất, và gạo của họ rất sạch - đây là một lợi thế lớn so với các cửa hàng bán lẻ khác trong vùng”. Cô Benke thường đi đến siêu thị D-Mart ở vùng Seawoods (cách trung tâm thành phố Mumbai 35km ) với tần suất 2 lần/tháng. Cô nói thêm: “Vì tôi là người đi làm, nên tôi không có thời gian để rửa gạo cho thật sạch”.

Benke nói rằng cô sẵn lòng khi mua quần áo trực tuyến, nhưng khi đi mua thực phẩm thì muốn được nhìn thấy mọi thứ tận mắt. Benke cho biết thêm “D-Mart cũng cung cấp dịch vụ gói quà tặng miễn phí, giúp cho việc mua quà tặng ở đây rất tiện lợi”.

Một người đã về hưu là V.P. Sharma, sống ở thị trấn Navi Mumbai phía đông Mumbai, cũng nói rằng D-Mart có một lợi thế khác biệt so với các hãng thương mại điện tử. “Các dịch vụ bán hàng trực tuyến thường có hiện tượng ‘treo đầu dê, bán thịt chó’. Ngoài ra, họ hay giao hàng vào những giờ khá bất tiện”.
Thị trường bán lẻ Ấn Độ hiện có trị giá khoảng 600 tỷ USD. Ảnh: scroll.in


Hãng tư vấn Boston Consulting Group cho biết rằng đây vẫn chưa phải là lúc thị trường bán lẻ Ấn Độ tăng trưởng mạnh nhất, với dự đoán rằng quốc gia Nam Á này sẽ trở thành thị trường tiêu dùng lớn thứ ba thế giới vào năm 2025. Khi đó, tiêu thụ trong nước sẽ tăng gấp ba lên đến 4 nghìn tỷ USD, nhờ vào sự thịnh vượng gia tăng thúc đẩy nhu cầu của người dân thành thị.

Kejriwal của hãng KRIS nói: “Damani có thể chưa có tầm cỡ và quy mô như của Wal-Mart, nhưng chắc chắn rằng ông ấy đang trên bước đường trở thành một Sam Walton mới”.



NCĐT
Share:

Thứ Sáu, 24 tháng 7, 2015

20 người giàu nhất lịch sử nước Mỹ

Giá trị tài sản của tỉ phú đã qua đời bao gồm cả các khoản đã di chúc được lấy tại thời điểm họ mất, sau đó các chuyên gia tính toán lại dựa trên quy mô nền kinh tế Mỹ và đồng USD hiện nay, tức đã điều chỉnh theo mức độ lạm phát

1. John D. Rockefeller (1839-1937)

Tài sản: 253 tỉ USD
 
Đứng đầu danh sách người giàu nhất lịch sử Mỹ là ông trùm dầu mỏ tỉ phú Rockefeller. Năm 1880, Công ty Standard Oil của ông kiểm soát đến 90% sản lượng dầu toàn nước Mỹ. Đến nỗi chính phủ Mỹ phải ra lệnh chia nhỏ công ty của ông sau nhiều cáo buộc làm giá và những phi vụ ngầm. Các công ty được “cắt” ra từ Standard Oil như ExxonMobil, Chevron, ConocoPhillíp và BP đều là những tập đoàn lớn nhất trong ngành năng lượng thế giới ngày nay.


2. Cornelius Vanderbilt (1794-1877)

Tài sản: 205 tỉ USD
Ai là người giàu nhất lịch sử Mỹ? (2)

Vanderbilt khởi nghiệp từ những chiếc sà lan tại cảng New York rồi dần mở rộng sang tàu hơi nước và kinh doanh đường sắt.


Với bản tính thô lỗ khi luôn miệng chửi thề và hút thuốc lá, Vanderbilt chưa bao giờ thực sự hòa nhập với thế giới thượng lưu tại New York. Tuy nhiên, các con của ông thì khác. Họ xây nhiều dinh thự xa xỉ dọc đường Park Avenue và cực thân thiết với giới thượng lưu. Nhưng đến năm 1973, không ai trong số 120 con cháu của Vanderbilt còn là triệu phú, do lối tiêu xài hoang phí.


3. John Jacob Astor (1763-1848)

Tài sản: 138 tỉ USD
Ai là người giàu nhất lịch sử Mỹ? (3)

Astor, là một người Đức, khởi nghiệp từ việc buôn lông thú nhưng cơ nghiệp của ông chủ yếu có từ việc đầu tư địa tại khu Manhattan ở New York với sự nâng đỡ khá nhiều của gia đình nhà vợ giàu có.


Vào thời điểm con trai ông lên nắm quyền điều hành công ty, nhà Astors đã sở hữu hơn 700 khu bất động sản tại khu vực này.

4. Stephen Girard (1750-1831)

Tài sản: 120 tỉ USD
Ai là người giàu nhất lịch sử Mỹ? (4)
Girard, người Mỹ gốc Pháp, khởi nghiệp bằng công việc trên những con tàu buôn từ châu Âu đến vùng Caribbean. Ở tuổi 23, Stephen Girard trở thành thuyền trưởng và sau đó sở hữu cả một đội tàu buôn.

Girard định cư tại Philadelphia và dùng số tiền kiếm được từ các tàu buôn để đầu tư vào các ngân hàng và cho chính phủ Mỹ vay tiền trong chiến tranh năm 1812. 

5. Richard Mellon (1858-1933)  

Tài sản: 103 tỉ USD

Ai là người giàu nhất lịch sử Mỹ? (5)
Richard và em trai Andrew (người giàu thứ 15 trong lịch sử Mỹ) là những ông trùm ngân hàng tại Pittsburgh, Pennsylvania. 2 nhà tài phiệt còn nhúng tay vào nhiều ngành công nghiệp màu mỡ của thế kỷ 19, như thép, dầu mỏ, than và đường sắt.

6. Andrew Carnegie (1835-1919)

Tài sản: 101 tỉ USD
 Ai là người giàu nhất lịch sử Mỹ? (6) 
Là ông trùm ngành thép, gắn với Tập đoàn thép Carnegie Steel (CSC) nhưng Andrew lại được biết đến nhiều với vai trò nhà từ thiện.

Ông bán cả công ty khổng lồ của mình cho J.P.Morgan US Steel và đem tiền góp cho các tổ chức phi lợi nhuận, từ thiện và gần 3.000 thư viện công. 

7. Stephen Van Rensselaer (1764-1839) 

Tài sản: 101 tỉ USD
Ai là người giàu nhất lịch sử Mỹ? (7)
Van Rensselaer là người cuối cùng thuộc tầng lớp quý tộc được cấp đất tại Bắc Mỹ, khi nơi này còn là thuộc địa của Hà Lan. Có thời điểm ông sở hữu hàng triệu mẫu đất ở bang New York, với hơn 100.000 tá điền sinh sống.

Ngoài việc thành lập Viện bách khoa Rensselaer, ông còn hỗ trợ tài chính cho chính phủ trong xây dựng kênh đào Erie. Rensselaer cũng là chỉ huy của 6.000 binh sĩ trong chiến tranh Anh – Mỹ 1812 và từng là nghị sĩ quốc hội Mỹ. 

8. Alexander Turney Stewart (1803-1876)

Tài sản: 100 tỉ USD
Ai là người giàu nhất lịch sử Mỹ? (8)
Là một thương nhân ngành dệt may người Iceland, Stewart tới Mỹ và xây dựng công ty bán buôn bán lẻ các mặt hàng khô lớn nhất tại đây. Ông cũng là nhà cung cấp đồng phục chủ yếu cho quân đội miền Nam trong cuộc nội chiến Mỹ.

9. Frederick Weyerhäuser (1834-1914)

Tài sản: 91,2 tỉ USD
Ai là người giàu nhất lịch sử Mỹ? (9)
Là ông trùm ngành gỗ và giấy tại Mỹ, ông cùng gia đình từng được cho là kiểm soát cả một vùng gỗ rộng lớn, có diện tích tương được bang Wisconsin ngày nay. Tuy vậy, Weyerhaeuser là một trong những công ty gỗ có trách nhiệm với môi trường nhất tại Mỹ.

10. Jay Gould (1836-1892)

Tài sản: 78,3 tỉ USD
Ai là người giàu nhất lịch sử Mỹ? (10)
Gould là một nhà đầu cơ, nhà tài chính và là một ông trùm trong ngành đường sắt. Ông cũng mệnh danh là doanh nhân có đạo đức kém nhất lịch sử Mỹ với những hành vi như chiếm đất, thao túng cổ phiếu, hối lộ. Ông từng giành quyền kiểm soát công ty đường sắt của Vanderbilt bằng cách phát hành cổ phiếu giả rồi hối lộ quan chức New York để thông qua thương vụ.

Vì sự man trá đó, Gould có rất ít bạn bè và bị đại đa phần xã hội New York lúc bấy giờ xa lánh dù là người rất giàu có.


11. Marshall Field (1834 – 1906)

Tài sản 75 tỉ USD
Ai là người giàu nhất lịch sử Mỹ? (11)
Marshall Field nổi danh với chuỗi cửa hàng bách hóa hàng đầu mang tên ông tại Chicago. Ông đi đầu khi đưa tín dụng, chính sách trả hàng và cửa hàng ăn uống vào trong các chuỗi bách hóa của mình. Marshall Field sau này bị tập đoàn Macy mua lại đổi tên từ đó.

12. Bill Gates (1955 – nay)

Tài sản: 74 tỉ USD
Ai là người giàu nhất lịch sử Mỹ? (12)
Bill là người đồng sáng lập tập đoàn công nghệ Microsoft và là người đàn ông giàu nhất thế giới nhiều năm trở lại đây. Sau khi rời khỏi các vị trí lãnh đạo tại Microsoft vào năm 2008, hầu hết thời gian của ông dành cho Quỹ từ thiện Bill và Melinda Gates Foundation.

13. Henry Ford (1863-1947)

Tài sản: 67,2 tỉ USD
Ai là người giàu nhất lịch sử Mỹ? (13)
Tên của ông gắn liền với dòng xe Model-T huyền thoại và ngành công nghiệp sản xuất ô tô của Mỹ và thế giới khi ông là người áp dụng việc lắp ráp ô tô bằng dây chuyền


14. Warren Buffett (1930 – nay)

Tài sản: 63,8 tỉ USD
Ai là người giàu nhất lịch sử Mỹ? (14)
Buffett mua lại hãng dệt may Berkshire Hathaway vào năm 1965 và biến nó thành một trong những công ty đầu tư thành công nhất mọi thời đại. Từ những năm 1960 đến năm 1990, cổ phiếu Berkshire tăng trung bình 28%. Buffett nổi tiếng với việc đấu tranh cho việc đánh thuế cao người giàu, kế hoạch quyên phần lớn tài sản cho từ thiện sau khi ông qua đời.


15. Andrew Mellon (1855-1937)

Tài sản: 63,2 tỉ USD 
Ai là người giàu nhất lịch sử Mỹ? (15)
Dù sống lâu hơn anh trai Richard Mellon (người số 5) 5 năm, nhưng giá trị tài sản của ông vẫn bị đánh giá thấp. Trong khi người anh Richard tập trung vào từ thiện ở vùng Pittsburgh thì Andrew quan tâm đến nghệ thuật. Ông đã tặng 126 bức tranh nổi tiếng của mình cho Bảo tàng nghệ thuật quốc gia ở thủ đô Washington, DC


16. Samuel M. Walton (1918-1992)

Tài sản: 56,5 tỉ USD
Ai là người giàu nhất lịch sử Mỹ? (16)
Samuel là người sáng lập tập đoàn bán lớn nhất hiện nay Wal-Mart. Tập đoàn này hiện có giá trị trên 130 tỉ USD.


17. Moses Taylor (1806 – 1882)

Tài sản: 54,5 tỉ USD
Ai là người giàu nhất lịch sử Mỹ? (17)
Là con trai một phụ tá của John Jacob Astor (số 3), Taylor dùng tiền bạc của gia đình để đầu tư vào một loạt các ngành công nghiệp: đường, cà phê, vận chuyển, đường sắt, thép, than đá và cả các tài sản xấu khác. Điều này giúp Taylor để leo lên chức chủ tịch Ngân hàng Quốc gia New York, tiền thân của Citibank hiện nay.

18. Russell Sage (1816-1906)

Tài sản: 53,6 tỉ USD
Ai là người giàu nhất lịch sử Mỹ? (18)
Sage khởi nghiệp với nghề bán hàng tạp hóa. Nhờ tiết kiệm và tài năng, ông sớm có đủ tiền để mở các cửa hàng riêng cho mình. Từ đó, ông mở rộng sang môi giới ngựa, vận tải và tài chính. Ông thường hợp tác với Jay Gould (số 10) để thao túng giá cổ phiếu.

Sau khi ông chết, vợ của Sage đem phần lớn tài sản của ông đi làm từ thiện dù trước đó Sega được biết đến là một người khá keo kiệt.


19. James G. Fair (1831-1894)

Tài sản: 52,9 tỉ USD
Ai là người giàu nhất lịch sử Mỹ? (19)
Làm giàu từ các mỏ bạc và vàng ở bang Nevada, nhưng tiền không mang lại hạnh phúc cho ông. James G. Fair ly dị vợ sau những cáo buộc ngoại tình và chứng kiến con trai ông tự tử. Ông qua đời ở tuổi 63 nhưng trước đó nhiều người thấy ông chìm đắm trong rượu và đi lang thang với dáng vẻ tiều tụy ở San Francisco.


20. William Weightman (1813-1904)

Tài sản: 51,8 tỉ USD
Ai là người giàu nhất lịch sử Mỹ? (20)
Weightman thành lập một công ty dược phẩm đã phát triển một dạng tổng hợp của quinine, được sử dụng để điều trị bệnh sốt rét. Công ty này sau đó sáp nhập vào Merck
Share:

Thứ Bảy, 6 tháng 12, 2014

Độ tuổi khởi nghiệp dễ thành công nhất

Theo Forbes, chính vì chẳng có gì để mất, tư tưởng táo bạo, mới mẻ và năng lượng tràn trề mà các doanh nhân tuổi 20 như Bill Gates, Steve Jobs và Mark Zuckerberg mới đạt được thành công.

Forbes bình luận, khi cần gây dựng công ty, phần lớn mọi người nghĩ đến một đội ngũ lãnh đạo giàu kinh nghiệm. Họ muốn có một cá nhân "đầy thành tích" với kinh nghiệm lập đội nhóm, viết kế hoạch kinh doanh, xây dựng sản phẩm và quản lý kết quả kinh doanh.
Share:

Thứ Ba, 2 tháng 9, 2014

Bước ngoặt quan trọng trong đời của 7 doanh nhân nổi tiếng

Dưới đây là những bước ngoặt trọng đại nhất trong sự nghiệp lừng lẫy của các doanh nhân nổi tiếng như Steve Jobs, Richard Branson… 

 

Richard Branson phát hiện và lăng xê một ca sĩ tài năng

Năm 16 tuổi, Richard Branson thành lập một tạp chí có tên Student. Nhưng bước ngoặt trong sự nghiệp của ông xảy ra 6 năm sau đó, khi ông mở một phòng thu và lăng xê ca sĩ Mike Oldfield. Oldfield cho ra mắt đĩa đơn “Tubular Bells” thành công rực rỡ, đứng đầu các bảng xếp hạng tại Anh trong 247 tuần. “Sau thành công đó, chúng tôi thành lập công ty thu âm. Và mọi thứ bắt đầu từ đó”, Richard chia sẻ.

Henry Ford gây ấn tượng với thị trưởng thành phố Detroit, bang Michigan, Mỹ

Năm 1898, sau khi chế tạo một bộ chế hòa khí, Henry Ford đã gây được ấn tượng với thị trưởng phố Detroit William C. Maybury và được Maybury cấp bằng sáng chế. Maybury đã giúp Ford rất nhiều trong quá trình phát triển công ty sản xuất xe hơi. “Sự giúp đỡ từ Maybury, cộng những ý tưởng tuyệt vời và uy tín của Ford, đã thu hút một nhóm các nhà đầu tư với 150.000 USD để thành lập công ty Detroit Automobile vào đầu tháng 8/1899”, trang History.com cho biết. Sau sự kiện này, Ford bỏ việc tại công ty Edison Illuminating và thành lập công ty sản xuất xe hơi hàng loạt đầu tiên trên thế giới.

Bill Gates ký một hợp đồng với IBM


Năm 1980, Bill Gates bỏ học trường Harvard và thành lập công ty nhỏ mang tên Microsoft bước những bước chân chập chững vào ngành công nghiệp máy tính còn rất non trẻ. Bước ngoặt lớn của Gates và Microsoft liên quan tới IBM. Khi đó, IBM (Big Blue) muốn tung ra dòng máy tính cá nhân giá rẻ để chiếm lĩnh thị trường nhanh chóng. Công ty này ký hợp đồng cung cấp hệ điều hành Windows của Microsoft.
 Steve Jobs nảy ra ý tưởng thành lập Apple từ một chủ cửa hàng máy tính

Mùa thu năm 1975, một tín đồ công nghệ tên Steve Jobs nhận thấy rằng bạn bè tại Carlifornia của mình đều phát cuồng với những chiếc máy tính tại nhà. Ông hỏi bạn mình Steve Wozniak rằng liệu Wozniak có muốn tạo ra một bảng mạch cho máy tính 25 USD và bán ra với giá 50 USD. Sau đó, Jobs tới một cửa hàng điện tử và đây chính là dấu mốc trong sự nghiệp của ông.
Tờ Cal Newport đăng tải thông tin về sự kiện này như sau: Jobs đi chân trần tới cửa hàng Byte Shop, cửa hàng máy tính của Paul Terrell và đề nghị Terrel mua bảng mạch của mình. 

Khi đó, Terrell không muốn mua bảng mạch nhưng nói rằng ông sẽ mua nếu đó là những chiếc máy tính được lắp ráp hoàn chỉnh. Ông sẽ trả 500 USD mỗi chiếc và muốn có ngay 50 chiếc. Jobs lập tức chớp lấy cơ hội này để kiếm nhiều tiền hơn. Ông bắt đầu tìm nguồn vốn để thành lập công ty. Và hãng công nghệ khổng lồ Apple ra đời từ đây.

Larry Page học cách kiếm tiền qua công cụ tìm kiếm

Trước năm 2002, Google hầu như không có nguồn doanh thu nào. Sau đó, Larry Page và Sergey Brin lên trang Goto.com của doanh nhân Bill Gross và học cách kiếm tiền của công cụ tìm kiếm này. Khi đó, Gross có thứ mà Page và Brin không có: Đó là dòng tiền mặt.
Theo trang Slate, Page và Brin đã tìm ra cách kiếm tiền từ những tìm kiếm trên công cụ của mình, giống như cách các công ty trả tiền để quảng cáo trong Trang vàng danh bạ, hay các website trả tiền để được lên đầu tiên trong những tìm kiếm liên quan trên GoTo.com. Hai nhà sáng lập Google đã tạo ra phiên bản của riêng mình mang tên AdWords Select và bắt đầu có doanh thu từ quảng cáo.

Howard Schultz học về cà phê

Starbucks từng là nhà cung cấp hạt cà phê có trụ sở tại Seattle cho đến khi nhà sáng lập Howard Schultz tham dự một hội thảo về ngành cà phê tại Milan vào năm 1983. Khi đó, đi tới bất cứ đâu Howard đều la vào các quán bán đồ uống này. “Chỉ riêng tại thành phố Milan có tới 1.500 cửa hàng, nằm tại mọi góc phố và tất cả cà phê đều được đóng hộp”. Và Schultz nhận ra rằng tính cộng đồng của việc thưởng thức món đồ uống trên. Đây là khởi nguồn của chuỗi cửa hàng lớn nhất thế giới Starbucks.

Vợ Sam Walton khăng khăng muốn sống tại một thị trấn nhỏ

Năm 1949, Sam Walton muốn rời Newport, bang Arkansas, Mỹ tới tại St. Louis. Nhưng vợ ông không muốn vậy. Bà khăng khăng muốn sống tại thị trấn nhỏ với dân số dưới 10.000 dân này. Và chính điều đó giúp ích cho sự khởi đầu của Walmart, bởi cộng đồng người dân tại thị trấn nhỏ Newport chưa được các hãng bán lẻ khác khai thác. Đây là bàn đạp cho sự phát triển và lớn mạnh của Walmart sau này.
 Theo Zing.vn
Share:

Trang

Nổi bật

Giới siêu giàu kiếm tiền từ đâu?