Kiến thức chứng khoán - Kinh nghiệm đầu tư chứng khoán

Hiển thị các bài đăng có nhãn thế giới. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn thế giới. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 15 tháng 9, 2016

Cách kẻ tội đồ của thế giới vượt qua khủng hoảng: "Dù sao vẫn có mẹ yêu thương tôi"

Kể từ khi khủng hoảng tài chính, Fuld hầu như không xuất hiện trước công chúng. Ông giữ im lặng mặc cho thế giới gọi ông với những cái tên "đáng sợ". Cho đến tháng 5/2015, ông quyết định "đã đến lúc để tôi ngẩng cao cái đầu xấu xí của mình".

Mùa thu năm 2008, Dick Fuld trở thành người đàn ông bị ghét nhất nước Mỹ.

Là CEO cuối cùng của Lehman Brothers , ông đã làm nên vụ phá sản lớn nhất trong lịch sử ngành ngân hàng Mỹ. Fuld nhanh chóng trở thành ví dụ điển hình cho hậu quả của việc chấp nhận rủi ro một cách thiếu thận trọng.

Kể từ khi khủng hoảng tài chính, Fuld hầu như không xuất hiện trước công chúng. Ông giữ im lặng mặc cho thế giới gọi ông với những cái tên "đáng sợ". Cho đến tháng 5/2015, ông quyết định "đã đến lúc để tôi ngẩng cao cái đầu xấu xí của mình".

"Suốt 7 năm qua, không ngày nào mà tôi không nghĩ về Lehman Brothers", Fuld chia sẻ tại cuộc họp báo ở Manhattan. Ông nói về những điều mọi người không ưa về mình, nhưng không hề nhắc đến những lời chỉ trích thậm tệ.

"Đối với tôi, chuyện trước đây thì hãy để nó qua đi, cuộc sống của tôi là hiện tại". Fuld chia sẻ. "Dù sao vẫn có mẹ yêu thương tôi. Bà ấy đã 96 tuổi".

Tại Phố Wall, Fuld giống như một thứ tài sản độc hại. Sau khi Lehman Brothers sụp đổ, không có một công ty lớn nào dám thuê ông vào làm việc. Fuld cũng là chủ đề của vô số vụ kiện tụng trong đó có vụ ông và một vài giám đốc khác của Lehman bị một cổ đông kiện phải trả 90 triệu USD năm 2011. Tại toà án xét xử, ông nhận được tràng pháo tay khiêm tốn chủ yếu đến từ các chuyên gia tài chính.

Nỗ lực quay trở lại

Cuộc họp báo năm 2015 là nỗ lực quay trở lại sau 5 năm im lặng kể từ khi Fuld bị điều tra bởi Uỷ ban Điều tra Khủng hoảng Kinh tế. Nhân cơ hội này, ông nói về Matrix Advisors - công ty tư vấn được ông thành lập 1 năm sau khi Lehman Brothes sụp đổ.

Sau khi làm ra và cũng mất đi một khoản tài sản không hề nhỏ trị giá 1 tỷ USD tại phố Wall, Fuld nói ông không nghĩ mình "có lựa chọn nào khác" ngoài việc trở lại với thị trường tài chính.

Trong suốt khủng hoảng tài chính, Lehman và một vài ngân hàng lớn khác ở Mỹ đã mắc kẹt trong tài sản thanh khoản kém. Điều đó có nghĩa rằng, chúng không thể mua hoặc bán ngay tức thời để "chữa cháy" trong khi khủng hoảng xảy ra. Nếu có thể trở lại quá khứ, ông sẽ làm điều gì đó khác đi để cứu Lehman.

Tuy nhiên, ông nhất quyết không nhận lỗi đã đẩy ngã Lehman. Ông khẳng định: Lehman là nạn nhân của những nhóm quyền lực bất chính. Đó không đơn thuần chỉ là một vụ phá sản ngân hàng.

"Chúng tôi đã làm tất cả những gì có thể chưa? Có chứ". Fuld nói.
Giống như nhiều chuyên gia tài chính khác, vị CEO cuối cùng của Lehman tin rằng khủng hoảng năm 2008 được kích hoạt bởi những xung đột quyền lực. Ông tin rằng chính sự nôn nóng muốn người dân được sở hữu nhà đất đã châm ngòi cho bong bóng bất động sản tại Mỹ năm 2008.
Theo Anh Sa
Trí Thức Trẻ/CafeF 
Share:

Thứ Tư, 28 tháng 1, 2015

1% người giàu nhất nắm giữ một nửa tài sản thế giới

Bất bình đẳng được cho là đe doạ đến tiến trình chống nghèo đói trên thế giới, làm ảnh hưởng đến đoàn kết dân tộc và chế độ dân chủ.
Bất bình đẳng là một vấn đề nổi cộm được cả thế giới quan tâm. Năm 2014 đánh dấu sự bùng nổ về hiện tượng bất bình đẳng qua những sự kiện như Chiếm lấy phố Wall tại Mỹ và lan rộng ra các nước châu Á.


Bất bình đẳng được cho là đe doạ đến tiến trình chống nghèo đói trên thế giới, làm ảnh hưởng đến đoàn kết dân tộc và chế độ dân chủ, nên nhiều biện pháp đã được cân nhắc và thực hiện với mục đích giảm thiểu hiện tượng này. Tuy nhiên, trước thềm hội nghị thường niên Diễn đàn Kinh tế Thế giới năm 2015 tại Davos, Tổ chức Oxfam đã công bố một báo cáo mới về hiện tượng bất bình đẳng và cho thấy sự gia tăng không ngờ của nó. Thực trạng bất bình đẳng được khái quát qua 4 vấn đề như sau:

1. Phần lớn tài sản trên toàn thế giới tập trung vào một nhóm nhỏ

Theo báo cáo của Credit Suisse được trích dẫn trong báo cáo mới nhất của Oxfam, năm 2010 đánh dấu hiện tượng một phần lớn tài sản toàn cầu tăng lên mạnh mẽ tập trung trong 1% người giàu nhất.

Báo cáo mới nhất của Oxfam cũng chỉ ra rằng, trong năm 2014, 1% những người giàu nhất trong dân số toàn cầu sở hữu 48% tổng giá trị tài sản. Tuy nhiên, sự bất bình đẳng không chỉ dừng lại ở 1% và 99%, mà nó còn xảy ra trong nhóm 99%. 20% người giàu nhất trong nhóm 99% được cho là sở hữu 46,5% tổng giá trị tài sản và kết quả là 80% người trong số 99% còn lại chia sẻ chỉ 5,5% giá trị tổng tài sản trên toàn cầu.

Nếu xu hướng này tiếp tục, Oxfam dự báo cho đến năm 2016 sở hữu tài sản toàn cầu của 1% những người giàu nhất sẽ vượt qua 50% giá trị tài sản toàn cầu.

2. Chỉ số ít lĩnh vực kinh tế quan trọng mang lại giá trị tài sản vượt bậc gây nên hiện tượng bất bình đẳng

Chỉ có một số ngành kinh tế quan trọng góp phần tích lũy của cải của các tỷ phú trên toàn thế giới. Theo thống kê vào tháng 3 năm 2014, 20% trong số các tỷ phú đã thu nhận giá trị tài sản vượt bậc đã tham gia hoạt động, hoặc liên quan đến các lĩnh vực tài chính, bảo hiểm. Kể từ tháng Ba năm 2013, đã có 37 tỷ phú mới từ các lĩnh vực này. Sự giàu có về của cải tích lũy của các tỷ phú từ các lĩnh vực tài chính và bảo hiểm tăng từ 1 nghìn tỷ USD đến 1,16 nghìn tỷ USD trong một năm, mức tăng danh nghĩa là 150 tỷ USD, tương đương 15%.

Bên cạnh đó, thời gian từ giữa năm 2013 đến 2014 các hoạt động trong lĩnh vực dược phẩm và y tế mang lại sự gia tăng lớn nhất về của cải của nhóm giàu nhất. Sự giàu có của nhóm tỷ phú trong lĩnh vực này tăng từ 170 tỷ USD đến 250 tỷ USD, tăng 47% và đây là tỷ lệ gia tăng lớn nhất về giá trị tài sản trong các lĩnh vực kinh tế khác nhau trên danh sách của Forbes.

3. Các hành vi trục lợi như vận động hành lang hay bóp méo chính sách là nguyên nhân làm trầm trọng hơn sự bất bình đẳng

Các công ty trong ngành tài chính và dược phẩm đã chi hàng triệu USD trong năm 2013 để vận động hành lang cho các chính sách mang lại lợi ích cho họ.

Các công ty trong lĩnh vực tài chính, bảo hiểm và dược phẩm/y tế được cho là có nhiều hoạt động sử dụng các nguồn lực cho ảnh hưởng về kinh tế và chính trị biểu hiện qua việc vận động hành lang chính phủ, về các vấn đề chính sách có lợi cho họ.

Trong khi các tập đoàn từ các lĩnh vực tài chính và bảo hiểm dành nguồn lực vận động hành lang để theo đuổi lợi ích riêng của họ, và kết quả lợi nhuận của họ gia tăng cùng với sự giàu lên của các cá nhân tham gia vào lĩnh vực này, thì những người bình thường phải tiếp tục trả giá của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.

Các công ty từ các lĩnh vực dược phẩm và y tế đã chi hơn 500 triệu USD vào việc vận động các nhà hoạch định chính sách ở Washington và Brussels.

Trong cuộc khủng hoảng Ebola, ba công ty dược phẩm lớn là thành viên của Liên đoàn quốc tế các nhà sản xuất dược phẩm (IFPMA) đã thực hiện việc đóng góp lớn nhất cho nỗ lực cứu trợ Ebola, họ quyên góp được hơn 3 triệu USD bằng tiền mặt và thiết bị y tế. Trong khi đó, cũng chính ba công ty này được cho là đã chi trả hơn 18 triệu USD cho hoạt động vận động hành lang tại Mỹ trong năm 2013.

Như vậy, việc đầu tư chi phí tài chính khổng lồ vào các hoạt động vận động hành lang chỉ mang lại lợi ích cho nhóm 1% người giàu nhất trong khi những người còn lại phải đối mặt với vấn đề thiếu hụt chi phí cho các hoạt động cơ bản trong cuộc sống như giáo dục và y tế.

Các hoạt động kinh tế vận động hành lang nhiều nhất ở Mỹ thường tập trung vào chính sách phân bổ ngân sách và thuế. Các quyết định đầu tư được tính toán bằng cách chi hàng tỉ USD cho việc vận động hành lang thông qua tiếp cận trực tiếp với các nhà hoạch định chính sách và pháp luật ở Washington và Brussels. Các doanh nghiệp thực hiện hành vi này với hi vọng lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh thuận lợi sẽ bù đắp chi phí vận động hành lang. Các chiến dịch vận động hành lang mang lại lợi ích cho doanh nghiệp nhưng gây nên nhiều hậu quả xấu cho xã hội. Đặc biệt vận động về các vấn đề thuế có thể trực tiếp làm suy yếu lợi ích công cộng.

4. Khuyến nghị về mặt chính sách làm giảm bất bình đẳng

Những năm tiếp theo theo dự đoán của tổ chức Oxfam vấn đề bất bình đẳng về thu nhập sẽ khó có thể thuyên giảm, bên cạnh đó chúng còn mang xu hướng gia tăng không ngừng đe doạ đến hoạt động chống lại đói nghèo, đoàn kết dân tộc và chế độ dân chủ trên toàn thế thới. Do đó, Oxfam cũng đã đưa ra 9 khuyến nghị đến các quốc gia trên thế giới nhằm làm giảm bất bình đẳng.

Thứ nhất, các chính phủ phải đưa ra các chính sách có lợi cho công dân của mình và làm giảm bất bình đẳng.

Thứ hai, tăng cường bình đẳng kinh tế và các quyền cho phụ nữ.

Thứ ba, đảm bảo một mức lương đủ tiêu chuẩn sống cho người lao động và thu hẹp khoảng cách về lương.

Thứ tư, chia sẻ gánh nặng thuế một cách công bằng.

Thứ năm, ngăn chặn hành vi trốn thuế quốc tế và tăng cường quản lí hệ thống thuế tốt hơn.

Thứ sáu, đến năm 2020 đạt được mục tiêu về các dịch vụ công cơ bản miễn phí.

Thứ bảy, thay đổi hệ thống nghiên cứu và phát triển từ đó bình ổn giá các loại thuốc để mọi người có nhu cầu đều có thể tiếp cận.

Thứ tám, thực hiện cách chính sachs bảo trợ xã hội cho người già, trẻ em và những người khó khăn trong xã hội.

Thứ chín, xây dựng hệ thống tài chính phát triển để làm giảm bất bình đẳng, xoá đói nghèo và nâng cao sự gắn kết giữa công dân và chính phủ.

Bất bình đẳng là một vấn đề nghiêm trọng đòi hỏi một sự phối hợp giữa các quốc gia trên thế giới và sự phối hợp chặc chẽ giữa chính phủ và công dân trong mỗi quốc gia, cải thiện tình trạng bất bình đẳng hiện nay sẽ góp phần xây dựng nguồn lực để giảm thiểu đói nghèo, tăng tinh thần đoàn kết dân tộc và củng cố nền dân chủ trên thế giới.
Share:

Thứ Năm, 18 tháng 12, 2014

Người Việt chưa giàu đã sang: Vì kiếm tiền... dễ quá!

"Phải biết quản lý sao cho hợp lý, để xóa bỏ được văn hóa thích bằng chị bằng em của người Việt".

Đó là những chia sẻ của TS Bùi Ngọc Sơn, Trưởng phòng Kinh tế thế giới, Viện Nghiên cứu chính trị thế giới, trước câu chuyện xài sang của người Việt, ông Sơn cho rằng đây là tật xấu của người Việt cần sửa chữa.

Chơi ngông, chơi sang
 
PV:- Thời gian qua, Việt Nam liên tiếp nhận chứng nhận khu nghỉ dưỡng, nhà hàng sang trọng bậc nhất thế giới. Những thương hiệu đắt tiền bậc nhất về xe hơi, thời trang, trang sức… cũng đang hiện diện ở Việt Nam. Điều này có thể coi nghịch lý khi Việt Nam vẫn thuộc top các nước nghèo, mức lương trung bình chỉ nhỉnh hơn Lào và Campuchia? Ông bình luận như thế nào về điều này?

TS Bùi Ngọc Sơn:- Đầu tư như vậy, theo tôi là tính đường dài, tính triển vọng, dù sao VN cũng là nước có dân số gần 100 triệu người, kỳ vọng tương lai còn phát triển mạnh hơn nữa, cho nên những thị trường đồ xa xỉ sẽ phát triển.
Bên cạnh đó, họ đã nghiên cứu, thấy rằng cách tiêu dùng của người Việt, cũng giống như Trung Quốc, khi đã có bùng nổ về thu nhập, thì sẽ có phong cách chi tiêu mạnh mẽ, đó chính là triển vọng bán hàng, có thể bây giờ chưa lãi, nhưng trong tương lai sẽ phát triển lên. 

Còn với Lào, Campuchia các nhà đầu tư xác định, cũng có thể phát triển nhưng đây là những thị trường nhỏ, không thể bằng VN. Chỉ cần đặt một giả thiết, nếu như VN phụ thuộc vào 1 trung tâm ở Trung Quốc thì sẽ rất xa cho vấn đề chi phí, như xe ô tô hạng sang, phải tính bao gồm chi phí trong khu vực, để bảo dưỡng, rồi các dịch vụ, bắt buộc phải đặt ở nơi tương đối hợp lý.

Đặc biệt, do tầm kinh doanh của các hãng đã nhắm vào phong cách chi tiêu chơi sang, chơi ngông, đã chơi thì sẵn sàng chơi hết mình của người Việt.

Tiêu dùng ăn chơi là những thứ thuộc dạng ghê gớm, nhưng người Việt thuộc nước uống bia nhiều nhất, nhập khẩu rượu lớn nhất, nhập ô tô hạng sang nhiều nhất, thậm chí có những loại ô tô vừa để triển lãm ở Đức, Mỹ, vài ngày sau khi vừa hết triển lãm đã về tới VN. 

Thậm chí, họ có thể bỏ ra vài ngàn USD để cho các hãng đại lý để khi mà kết thúc triển lãm thì sẽ mang về VN ngay. Những khoản chi tiêu này quá hung hãn, cũng có thể vì những dấu hiệu như thế mà các hãng nhận thấy rõ ràng có nhu cầu kiểu chơi như thế rất mạnh, nên mới đặt các trụ sở ở VN. 

PV:- Đồng ý rằng những khu nghỉ dưỡng, những nhà hàng sang trọng nhằm tới mục tiêu phục vụ khách nước ngoài. Thế nhưng phải hiểu như thế nào về những chiếc xe hơi có một không hai trên thế giới, trào lưu đua nhau xây trụ sở… như cung điện đã được chính các đại biểu Quốc hội phản ánh, những chuyến đi học hỏi kinh nghiệm “kiểu đại gia” của nhiều cán bộ dự án…? Bằng kinh nghiệm của mình, ông có thể phân tích, ai là những người được xài sang ở Việt Nam?

TS Bùi Ngọc Sơn:- Theo tôi tất cả những việc này xảy ra đều là do cách quản lý. Nếu như đi theo dự án mà chỉ cưỡi ngựa xem hoa, dùng tiền ngân sách, chi ra cho các đoàn thì quá đáng chê trách. 

Hơn nữa, chuyện đi học hỏi chủ yếu giải quyết về mặt chính sách, mà không quan tâm đến kinh nghiệm, trách nhiệm của những người đi làm việc. Đắng lòng, có một thực tế phũ phàng đang diễn ra, nếu là công ty tư nhân thì dứt khoát các chuyến đi này sẽ rất hiệu quả, họ sẽ phải lăn lộn, xem xét học để làm. Trong khi anh đi theo ngân sách thì chỉ đi ngắm cảnh, như vậy thì sẽ không bao giờ có hiệu quả, chỉ coi đi làm cho có trách nhiệm, để về báo cáo.

Cho nên, tôi cho rằng, chừng nào vẫn còn dựa vào ngân sách để mà chi tiêu cho các hoạt động kiểu này thì không bao giờ thu lượm được gì từ nước ngoài.
Bên cạnh đó, theo tôi, xài sang còn 1 vấn đề nữa, đó chính là cách thức kiếm tiền của những người cảm thấy quá dễ dàng, kể cả quan chức. TQ cũng là 1 thị trường tiêu xài 1 cách bừa bãi, thể hiện sự sĩ diện là chính. Thế nhưng, khám phá mới thấy tham nhũng hiện nay đang diễn ra khủng khiếp, đồng tiền tham nhũng lấy được dễ dàng, nên chi tiêu cũng rất ghê gớm.
Người Việt nghèo nhưng thích bằng chị bằng em

Share:

Thứ Bảy, 6 tháng 12, 2014

Steve Jobs và Winston Churchill từng là những diễn giả rất tồi

“Bí quyết để trở thành một diễn giả xuất sắc của Churchill là chuẩn bị kỹ lưỡng. Không phải ông ấy bẩm sinh đã diễn thuyết hay như vậy”. 
Chiều ngày 28/05/1940, nội các chính phủ Anh lo sợ và hoang mang trước tin Bỉ đầu hàng Hitler, nhiều quốc gia khác bị Đức Quốc xã chiếm hoặc đang trên bờ vực sụp đổ, trong đó có Pháp. Không ít lãnh đạo và người dân nước Anh thúc giục vị Thủ tướng mới, Winston Churchill, hãy đàm phán với Hitler.

Share:

Thứ Tư, 3 tháng 12, 2014

Tại sao người Đức làm việc ít mà năng suất cao nhất thế giới?

Mỹ vẫn được xem là nước có nền khoa học kỹ thuật tiên tiến, năng suất lao động cao trên thế giới. Thế nhưng gần đây, ngay cả người Mỹ cũng phải cảm thấy nể phục người Đức khi biết rằng người Đức có kỷ luật lao động tốt và năng suất lao động rất cao.
Khi người Mỹ cũng như thế giới nghĩ về nước Đức, những ký ức về chiến tranh thế giới thứ 2 và chủ nghĩa phát xít Hitler thường ngay lập tức xuất hiện. Thế nhưng, một điều nữa mà thế giới phải công nhận, đó là nước Đức chính là cái nôi của nền công nghiệp châu Âu, là nhà sản xuất hàng đầu các sản phẩm chất lượng cao xuất sang các nước trên thế giới. Chính nước Đức đã cứu khu vực đồng Euro thoát khỏi đổ vỡ vào năm 2012 khi khủng hoảng tài chính nổ ra. 

Người lao động Đức cũng được bảo vệ tốt nhất và có thời gian làm việc ít hơn so với người lao động của các nước.  Họ làm việc trung bình 35 giờ mỗi tuần nhưng lại có năng suất lao động cao hơn nhiều so với thế giới. Lý do nằm ở đâu? 

1. Giờ làm việc nghĩa là giờ làm việc 

Một chân lý rất đơn giản, nhưng không phải nền sản xuất nào cũng “thấu” được chân lý này. Trong văn hóa doanh nghiệp của Đức, khi một công nhân làm việc, họ chuyên tâm vào công việc hơn là bất cứ một thứ gì khác. Lướt facebook, tán chuyện với đồng nghiệp và sau đó vẽ lăng nhăng ra giấy khi thấy sếp bước vào phòng đều bị xem là những hành vi không thể chấp nhận đối với người lao động ở Đức.

Đối với các nước công nghiệp khác, thói quen chuyên tâm công việc có thể được rèn giũa qua người quản lý nhưng đối với người Đức, đây được xem như bản tính vốn có. Trong bộ phim tài liệu “Hãy biến tôi thành một người Đức” của BBC, một phụ nữ Đức trẻ đã lý giải cú sốc văn hóa mà cô gặp phải trong một chuyến trao đổi công việc ở Anh: “Tôi đến Anh trong một chuyến trao đổi công tác…Tôi ở trong văn phòng và thấy người ta nói chuyện suốt cả buổi về những thứ rất riêng tư, chẳng hạn như tối nay bạn sẽ làm gì, rồi họ uống café suốt cả buổi”. Người Đức không như vậy và họ cảm thấy ngạc nhiên về những điều đó. 

2. Đánh giá cao việc hướng tới mục tiêu, làm việc trực tiếp 

Văn hóa doanh nghiệp Đức có tính tập trung cao và giữ các mối liên lạc công việc trực tiếp. Các công nhân có thể trực tiếp phản ánh với giám đốc về một sản phẩm, sử dụng ngôn ngữ công việc một cách thẳng thắn mà không phải đề cao những ngôn từ văn hoa lịch sự mất thời gian.

Chẳng hạn, một người Mỹ sẽ nói: “Thật tuyệt vời nếu anh có thể nộp báo cáo cho tôi trước 3 giờ chiều”. Trong khi đó, một người Đức sẽ nói: “Tôi cần báo cáo trước 3 giờ chiều”. 

3. Cuộc sống ngoài công việc 

Chính vì giờ làm việc được tập trung vào công việc nên giờ nghỉ đối với người Đức cũng thực sự là giờ nghỉ. Người Đức thường quan niệm sự tách bạch giữa công việc và cuộc sống riêng tư. Thậm chí chính phủ Đức còn đang xem xét một lệnh cấm những thư điện tử liên quan đến công việc được gửi cho người làm sau 6 giờ chiều, nhằm tránh sự lạm dụng các phương tiện điện tử làm ảnh hưởng đến giờ nghỉ của nhân viên.

Nhờ có năng suất lao động cao, người Đức cũng được hưởng nhiều ngày nghỉ mà vẫn được trả lương, lên tới 25 – 30 ngày/năm. Nới rộng số ngày nghỉ được trả lương nghĩa là các gia đình có thể sắp xếp thời gian tới gần cả tháng ở bên nhau, cùng đi du lịch mà không phải bận tâm nhiều với công việc. Và đây cũng là cách để họ sẽ chú tâm với công việc, nâng cao năng suất lao động hơn sau mỗi kỳ nghỉ.
Theo VietNamNet
Share:

15 tỷ phú giàu nhất nước Đức năm 2014

Hầu hết các tỷ phú giàu nhất nước Đức làm nên khối tài sản tỷ đô là nhờ khoản thừa kế kếch sù trong khi chỉ một số là tỷ phú tự thân lập nghiệp. Họ chủ yếu kinh doanh trong ngành sản xuất xe ô tô, bán lẻ, cổ phiếu, bất động sản, bán hàng trực tuyến, phần mềm... 


Share:

Chủ Nhật, 19 tháng 10, 2014

Ai là giám đốc điều hành tài năng nhất thế giới?

Theo bình chọn của tạp chí Harvard Business Review, Jeff Bezos chính là người dẫn đầu danh sách 100 CEO (giám đốc điều hành) xuất sắc nhất thế giới.
Jeff Bezos hiện là giám đốc điều hành của Amazon.com - tập đoàn bán lẻ trực tuyến lớn nhất thế giới hiện nay. 
Theo thống kê của Harvard Business Review (HBR), dưới sự điều hành của Jeff Bezos, giá trị của Amazon đã tăng thêm 140 tỷ USD và tổng lợi nhuận đem về cho cổ đông là 15,189%.


Zeff Bezos sáng lập Amazon.com vào năm 1994 và xây dựng wesite bán hàng trực tuyến một năm sau đó. Amazon.com ban đầu chỉ kinh doanh một hiệu sách trực tuyến, nhưng sau đó nhanh chóng đa dạng hóa các mặt hàng, bán cả DVD, CD, tải nhạc MP3, phần mềm máy tính, video game, hàng điện tử, nữ trang, đồ nội thất, thực phẩm và cả đồ chơi.
Hiện nay, Amazon là một công ty thương mại điện tử đa quốc gia, có website riêng tại nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, sự trỗi dậy mạnh mẽ của Alibaba với website trực tuyến Taobao.com đang trở thành mối đe dọa lớn đối với đế chế Amazon. Điều này cũng trở thành thách thức lớn không chỉ với Zeff Bezos mà cả đội ngũ lãnh đạo của tập đoàn này.
HBR cho biết để chọn ra top 100 CEO xuất sắc nhất thế giới tạp chí này đã căn cứ vào các số liệu như: lợi nhuận mà doanh nghiệp đó thu được, số cổ tức chia cho cổ đông hoặc tổng lợi nhuận đem về cho cổ đông cũng như giá trị vốn hóa thị trường của doanh nghiệp trong nhiệm kỳ làm giám đốc điều hành của vị giám đốc đó.

"Chúng tôi xem xét kết quả mà những CEO đã đạt được trong một thời gian khoảng 5 năm chứ không chỉ trong ngắn hạn. Đồng thời, chúng tôi cũng xem xét các con số một cách khoa học dựa trên cơ sở dữ liệu thu thập được, chứ không phải dựa vào danh tiếng hay bất cứ giai thoại nào", Adi Ignatius, Tổng biên tập của tạp chí Harvard Business Review khẳng định.

Để đưa ra bảng xếp hạng này, HBR đã đánh giá 832 CEO hiện tại của các công ty có tên trong S&P Global 1200. HBR tính toán mức lợi nhuận hàng ngày đem về cho công ty kể từ khi vị CEO nhậm chức cho đến ngày 30/4/2014.

Căn cứ vào đó, HBR đã xếp Zeff Bezos ở đầu danh sách, các vị trí tiếp theo trong top 10 lần lượt thuộc về John Martin (CEO của Gilead Sciences), John Chambers (CEO của Cisco Systems), David Pyott (CEO của Allergan), David Simon (CEO của Simon Property Group), Lars Rebien Sørensen (CEO của Novo Nordisk) , Hugh Grant (CEO của Monsanto), J. Michael Pearson (CEO của Valeant Pharmaceuticals), Mark Donegan (CEO của Precision Castparts), và William Doyle (CEO của PotashCorp).

Trong top 100 CEO xuất sắc nhất thế giới của HBR, có 29 người có bằng MBA, 24 người từng có bằng kỹ sư và chỉ có 2 người là phụ nữ.

HBR cũng cho biết, lương trung bình hàng năm các CEO Mỹ trong danh sách này 12,1 triệu USD, cao gần gấp 2 lần so với con số 6,4 triệu USD mà các CEO ngoài nước Mỹ nhận được. Trong đó, CEO nhận được lương cao nhất danh sách là Giám đốc điều hành Walt Disney Robert Iger, với mức lương 34,3 triệu USD/năm.
Share:

Trang

Nổi bật

Giới siêu giàu kiếm tiền từ đâu?