Kiến thức chứng khoán - Kinh nghiệm đầu tư chứng khoán

Hiển thị các bài đăng có nhãn thiên tài. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn thiên tài. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 4 tháng 2, 2016

Cố tình trì hoãn công việc là phẩm chất của bậc thiên tài!

Thời kỳ Ai Cập cổ đại, sự trì hoãn được định nghĩa là: “Chờ đợi cho đến khi đúng thời điểm”.

http://www.blogchungkhoan.com/2015/09/mo-tai-khoan-tu-van-au-tu-chung-khoan.html#.VrLpYECAZFo
Đã có rất nhiều lời khuyên về việc đừng bao giờ trì hoãn và hầu hết trong chúng ta ai cũng nghĩ rằng sự trì hoãn là rào cản cho sự thành công.

Tuy nhiên, theo Adam Grant – một giáo sư về quản lý tại đại học Wharton đồng thời là tác giả cuốn sách Originals thì trì hoãn là "công cụ đầy quyền lực" được sử dụng bởi những nhà tư tưởng có suy nghĩ cải tiến nhất.

Ông giải thích rằng nhìn lại lịch sử, sự trì hoãn được con người lý giải theo 2 cách khác nhau:

Đầu tiên, hiện nay hầu hết mọi người đều nghĩ về trì hoãn trong mối liên hệ với sự lười biếng và thờ ơ. Tuy nhiên, thời kỳ Ai Cập cổ đại, sự trì hoãn được định nghĩa là: “Chờ đợi cho đến khi đúng thời điểm”. Và đây là quan điểm mà những người có bộ óc vĩ đại và nhà cải tiến xuất chúng như Steve Jobs đồng tình và thực hiện theo.

Cụ thể các nghiên cứu cho thấy trì hoãn hoàn toàn là một thói xấu nếu nhắc trên phương diện hiệu suất làm việc nhưng đây lại là một đức tính tốt, giúp ích cho sự sáng tạo.

“Khi Steve Jobs quyết định bỏ mọi việc sang một bên để tìm tòi những cơ hội khác nhau là thời gian quý báu vì nhờ đó có nhiều ý tưởng hay và mới lạ được đưa ra. Còn nếu bắt tay ngay vào công việc thì sẽ chỉ có có thể đưa ra những ý tưởng theo lối mòn”.

“Tôi cho rằng ý tưởng trì hoãn là một cái gì đó mà tất cả chúng ta cần đón nhận bởi sáng tạo thì không thể vội vàng được”.

Theo nghiên cứu được thực hiện bởi chuyên gia tâm lý học người Nga là Bluma Zeigarnik thì khi kết thúc một công việc, chúng ta sẽ ngừng nghĩ về nó nhưng một khi gặp gián đoạn và không thể hoàn thành, nó vẫn sẽ quẩn quanh trong tâm trí của chúng ta.

Trì hoãn một cách có chiến lược nghĩa là ngừng bất kỳ công việc nào mà chúng ta đang làm trước khi chúng hoàn thành để cho những ý tưởng sáng tạo hơn xuất hiện. Nên thực hiện quá trình này dần dần bằng việc kiểm tra và sàng lọc những khả năng khác nhau”.

“Cũng cần phải lưu ý rằng tôi không nói mọi người nên trì hoãn mọi thứ mãi mãi bởi như thế cuối cùng sẽ chẳng có việc gì được hoàn thành cả. Tuy nhiên đôi khi tạm hoãn vào giai đoạn giữa của một dự án có thể khuyến khích mọi người lùi một bước và đánh giá lại.
Phương Linh

Theo Trí Thức Trẻ/BI
Share:

Thứ Tư, 2 tháng 9, 2015

Những thiên tài toán học đang vận hành Phố Wall

Nếu bạn nghĩ rằng con người mới đang là nhân tố điều khiển Phố Wall, suy nghĩ của bạn đang đi sau thời đại ít nhất là... 10 năm. 


Phố Wall (Wall Street) giờ đã thuộc về các siêu máy tính, lợi nhuận giờ được tính trên sự khác biệt một phần nghìn giây... Tất cả là nhờ có các nhà phân tích định lượng. 



Còn nhớ năm ngoái, một tin nhắn Twitter đã được tài khoản của hãng tin Mỹ Associated Press (AP) đăng tải. Nội dung của mẩu tin này là "Tin khẩn cấp: 2 vụ nổ xảy ra tại Nhà Trắng, Barrack Obama bị thương". Hẳn nhiên, đây không phải là thông tin chính xác: tài khoản Associated Press nói trên đã bị một nhóm hacker tự xưng là "Quân đội điện tử Syria" tấn công chiếm quyền sử dụng.


Chỉ trong vòng vài mili-giây, tin nhắn Twitter này đã bị các máy tính của Phố Wall nhận diện là sai lệch.

Nhưng, nhiều máy tính khác của Phố Wall thì không thông minh tới như vậy. Được lập trình để nhận diện các từ ngữ có thể gây ảnh hưởng tới giá cổ phiếu toàn cầu, các máy tính này ngay lập tức thực hiện vô số giao dịch khi phát hiện ra các từ như "Obama", "vụ nổ" và "Nhà Trắng". Trong vòng vài giây, chỉ số Dow Jones sụt giảm 140 điểm. Hơn 200 tỷ USD tiền vốn tan vào mây khói.


Vài phút sau, sau khi tin nhắn Twitter của Associated Press đã được xác định rõ ràng là một thông tin sai lệch, các sàn chứng khoán lại nhanh chóng hồi phục và trở lại với mức đạt được trước khi tin Twitter nói trên được đưa ra.

Với nhiều người, sự thật rằng chỉ một tin đồn giả mạo trên Twitter cũng có thể khiến 200 tỷ USD "bốc hơi" là quá khó tin.


Nếu câu trả lời của bạn là "con người", bạn đang lạc hậu đến mức không thể tin được. Trong vòng một thập kỷ qua, máy tính đã tiến hành "lật đổ" con người để thống trị sàn chứng khoán. Những nhân vật dạng như Gordon Gekko (nhân vật trong bộ phim lừng danh Wall Street của đạo diễn Oliver Stone) – những nhà môi giới có bộ tóc bạc, mặc những bộ complet giá hàng nghìn đô la giờ đã bị thay thế bởi các siêu máy tính có thể phân tích dữ liệu, mua và bán hàng nghìn cổ phiếu trong nháy mắt.

Nếu bạn nghĩ rằng con người mới đang là nhân tố điều khiển Phố Wall, suy nghĩ của bạn đang đi sau thời đại ít nhất là... 10 năm. Phố Wall giờ đã thuộc về các siêu máy tính, lợi nhuận được tính trên sự khác biệt phần nghìn giây... Tất cả là nhờ có các nhà phân tích định lượng.
Thời của những bản sao Gordon Gekko (phim Wall Street) đã kết thúc.

Ngày hôm nay, khi đến thăm một sàn giao dịch nào đó, bạn sẽ không còn thấy cảnh tượng những người đàn ông mặt mũi căng thẳng gào thét vào điện thoại như một cảnh phim nào đó trong The Wolf of Wall Street nữa. Thay vào đó, bạn sẽ thấy những người điềm tĩnh ngồi trước màn hình máy tính để theo dõi các giao dịch mà máy tính vừa thực hiện thay cho họ.


Có tới 70% lệnh mua hoặc bán trên Phố Wall được thực hiện từ phần mềm máy tính. Những người điềm tĩnh mà chúng ta vừa nhắc tới ở trên đều là các thiên tài toán học, tác giả của các phần mềm này. Thế chỗ cho Gordon Gekko và Jordan Belfort, các lập trình viên này đã trở thành "những người thông minh nhất trong sàn giao dịch".


Với Phố Wall, đây là thời đại của các thuật toán cao siêu.


Cuộc xâm lấn của toán học vào thị trường chứng khoán


Các nhà toán học bắt đầu xâm chiếm thế giới tài chính vào thập niên 1960. Vào năm 1967, Edward Thorp, giáo sư bộ môn toán tại Đại học California đã cho xuất bản một cuốn sách có tên Beat the Market (Đánh bại cả thị trường). Cuốn sách này hé lộ về cách bán cổ phiếu với giá cao và mua lại với giá thấp hơn – một biện pháp kiếm tiền vốn được Thorp phát minh khi chơi blackjack (roi gân bò) tại các sòng bài. Cuốn sách này thành công tới mức các sòng bạc buộc phải thay đổi luật chơi blackjack, còn thị trường chứng khoán thì vĩnh viễn thay đổi.

Nếu bạn nghĩ rằng con người mới đang là nhân tố điều khiển Phố Wall, suy nghĩ của bạn đang đi sau thời đại ít nhất là... 10 năm. Phố Wall giờ đã thuộc về các siêu máy tính, lợi nhuận được tính trên sự khác biệt phần nghìn giây... Tất cả là nhờ có các nhà phân tích định lượng.
Edward O. Thorp
Năm 1974, Thorp sáng lập một quỹ đầu tư có tên Princeton/Newport Partners. Tài sản ông kiếm được khủng khiếp tới mức vào năm 1988, ông tuyên bố tỉ lệ lãi hàng năm vượt mức 20%.

Cũng chính vào thời điểm này, thị trường việc làm cho các nhà khoa học bắt đầu sụt giảm trầm trọng. Sau khi NASA thực hiện thành công nhiệm vụ đưa con người lên Mặt trăng vào năm 1969, chính phủ Mỹ bắt đầu cắt giảm các khoản vốn dành cho nghiên cứu khoa học và tập trung vào cuộc chiến tại Việt Nam.

"Một thế hệ các nhà vật lý học bỗng dưng phải cầm tấm bằng PhD bước chân vào một thị trường việc làm đã kiệt quệ", James Owen Weatherall, tác giả cuốn The Physics of Finance (tạm dịch: Vật lý học Tiền tệ) cho biết. Những người này buộc phải tìm cách tự nuôi sống bản thân, và khi nhìn thấy lượng tiền khổng lồ tiếp tục đổ về Phố Wall, họ quyết định bước chân vào thị trường tài chính.

Sau đó, sự kiện Liên Xô sụp đổ mang một loạt các nhà khoa học thuộc khối Hiệp ước Warsaw (Vác-xa-va) tới nước Anh. Cùng với các nhà vật lý học thất thế tại Mỹ, các nhà khoa học Đông Âu này đã mang tới một phương pháp phân tích dữ liệu mới, và cùng với đó là niềm tin rằng với sức mạnh tính toán đạt một mức nhất định, con người có thể dự đoán chính xác về thị trường tài chính. Đây được coi là điểm khởi đầu cho một bộ môn khoa học mới: phân tích định lượng.


Và, nhà phân tích định lượng tài chính nổi tiếng nhất cũng là một thiên tài toán học: Jim Simons.

Nếu bạn nghĩ rằng con người mới đang là nhân tố điều khiển Phố Wall, suy nghĩ của bạn đang đi sau thời đại ít nhất là... 10 năm. Phố Wall giờ đã thuộc về các siêu máy tính, lợi nhuận được tính trên sự khác biệt phần nghìn giây... Tất cả là nhờ có các nhà phân tích định lượng.
Jim Simons, nhà khoa học, thương gia vĩ đại.

Với các nhà vật lý học, Simons là một huyền thoại sống. Học thuyết Chern-Simon do ông là đồng tác giả được coi là một trong những yếu tố quan trọng nhất của lý thuyết dây (lý thuyết đồng nhất hạt và các lực cơ bản). Với bộ râu bạc, nỗi sợ vô lý dành cho... tất chân và vẻ ngoài rất "tri thức", ít ai sẽ nghĩ rằng Simons sẽ bước chân vào thế giới Wall Street xô bồ, hỗn loạn.


Nhưng đến năm 1982, ông sáng lập ra Renaissance Technologies, một công ty có mức độ thành công vô cùng đáng nể phục: quỹ Medallion của Renaissance đạt mức hồi vốn lên tới... 2.478,6% trong 10 năm đầu tiên. Ngay cả công ty quản lý quỹ Soros Fund Management của huyền thoại George Soros – người đã kiếm được 1 tỷ USD trong cuộc khủng hoảng tài chính tại Anh vào năm 1992, cũng không thể đạt mức này.


Ngay cả khi đã bình ổn, quỹ Medallion vẫn đạt tới tỷ lệ thu lời 40%/năm. Thuật toán quản lý bí mật và vô cùng phức tạp đằng sau Medallion đã giúp Jim Simons trở thành một trong những tỷ phú hàng đầu thế giới với khối tài sản hơn 10 tỷ USD.


1/3 trong số 200 nhân viên đang làm việc cho Simons trong một căn phòng buồn tẻ đặt tại Long Island, New York có bằng tiến sĩ, không phải là trong lĩnh vực tài chính, mà là trong toán học, vật lý học và thống kê. Renaissance Technologies được coi là "bộ phận vật lý và toán học tuyệt vời nhất trên thế giới" và thậm chí, theo Weatherall, còn "tránh tuyển dụng bất kỳ một người nào mang dáng dấp của Phố Wall".


Cuốn sách của Weatherall cho biết: "Các tiến sĩ tài chính không nên xin vào làm tại đây; các nhà môi giới đã từng làm việc tại một ngân hàng đầu tư truyền thống hoặc các quỹ đầu tư khác cũng vậy. Bí quyết thành công của Simons là tránh xa các chuyên gia về tài chính".


Không có gì đáng ngạc nhiên, các nhà môi giới truyền thống của Phố Wall rất ghét các nhà phân tích định lượng. Những người này đã đẩy các bản sao của Gordon Gekko ra khỏi vị trí số 1 tại sàn giao dịch, và quan trọng hơn, văn hóa giữa 2 thế hệ "ngôi sao" này là hoàn toàn khác nhau: các nhà phân tích định lượng không ăn mặc hào nhoáng và thậm chí còn có phần hơi kỳ cục.

Nếu bạn nghĩ rằng con người mới đang là nhân tố điều khiển Phố Wall, suy nghĩ của bạn đang đi sau thời đại ít nhất là... 10 năm. Phố Wall giờ đã thuộc về các siêu máy tính, lợi nhuận được tính trên sự khác biệt phần nghìn giây... Tất cả là nhờ có các nhà phân tích định lượng.ơ
Một nhân viên bán phần mềm ẩn danh chia sẻ lại về cách giao tiếp của các nhà phân tích định lượng làm việc cho các quỹ đầu tư:

"Họ không nói chuyện phiếm. Khi một người đón tôi tại lễ tân và lên thang máy, tôi học được nguyên tắc rằng bạn không nên nói chuyện với họ về, ví dụ, thời tiết. Họ có vẻ không hiểu cách giao tiếp của bạn. Họ nghĩ rằng bạn đang muốn nói một điều gì đó cao siêu về khí tượng học. Ngay cả những câu đùa vô hại cũng vậy... Họ nhìn lại bạn với ánh mắt trống trải".

Công việc của các nhà phân tích định lượng tài chính là gì?


Patrick Boyle và Jesse McDougall điều hành quỹ đầu tư của mình từ một căn nhà nhỏ đặt tại thị trấn Islington, London, Anh. Văn phòng của họ đặt cạnh một quán cafe yên bình, nơi mà những người chủ quán hiền lành có lẽ sẽ cảm thấy khiếp sợ về "chu trình tư bản" đang diễn ra bên trong nhà hàng xóm của mình.

Trong văn phòng của mình, Boyle và McDougall đặt tới 3 màn hình máy tính. Họ bắt đầu làm việc từ 7 giờ sáng và kết thúc lúc 7 giờ tối. "Chúng tôi có màn hình máy tính trong bếp và trong phòng khách. Nhờ đó mà chúng tôi có thể theo dõi thị trường khi đang ngồi ăn tối, và chúng tôi cũng có thể đăng nhập từ xa khi đi chơi buổi tối".
Nếu bạn nghĩ rằng con người mới đang là nhân tố điều khiển Phố Wall, suy nghĩ của bạn đang đi sau thời đại ít nhất là... 10 năm. Phố Wall giờ đã thuộc về các siêu máy tính, lợi nhuận được tính trên sự khác biệt phần nghìn giây... Tất cả là nhờ có các nhà phân tích định lượng.
Trên biểu đồ theo dõi hoạt động của quỹ đầu tư do Boyle và McDougall sáng lập, đường hiển thị không hề xuống dốc khi thị trường tụt dốc. Tốc độ tăng của đường hiển thị này thậm chí còn nhanh hơn cả chỉ số FTSE của Anh.

"Chúng tôi làm được điều này thông qua toán học. Chúng tôi mua dữ liệu thị trường chứng khoán và phân tích chúng. Điều này giống như là dự đoán thời tiết vậy – chúng tôi có thể đưa ra các phát biểu dạng như ‘khả năng 65% là thị trường sẽ tăng từ lúc mở đến lúc đóng', nhờ đó mà chúng tôi sẽ có tỷ lệ sinh lời từ đầu tư ngắn hạn ở mức trên 50%, và nếu bạn có thể quản lý đầu tư ngắn hạn tốt, bạn sẽ kiếm được lời".


"Anh đã viết chương trình phần mềm này như thế nào", phóng viên cất tiếng hỏi Boyle.

"Một cách chậm rãi".

Boyle có thể lập trình một cách chậm rãi, nhưng tốc độ thực hiện giao dịch sẽ không thua kém gì những tia chớp. Quỹ đầu tư của Boyle và McDougall không tham gia vào giao dịch tần suất cao HFT (giao dịch thực hiện qua hệ thống phân tích và đặt lệnh tốc độ chớp nhoáng), nhưng tiềm năng của loại giao dịch này là rất khủng khiếp: "Trong một mili-giây giá cổ phiếu có thể chỉ tăng đúng 1 cent. Trong một mili-giây này, với HFT bạn có thể mua bán hàng trăm cổ phiếu hàng nghìn lần và kiếm lời".


Chứng khoán giờ là cuộc chơi của tốc độ


Từng đảm trách vị trí phân tích định lượng cho một ngân hàng lớn tại Anh, Simon Jones, 36 tuổi kể lại về công việc phụ trách các giao dịch HFT:


"Những người tôi từng cùng làm việc đều là những người tuyệt vời nhất. Họ đến từ khắp mọi nơi trên thế giới: Ấn Độ, Nga và Trung Quốc".


Công việc vô cùng căng thẳng và mang tính cạnh tranh cao:


"Giả sử tôi đã phát hiện ra rằng chỉ số Dow Jones cứ tăng thì FTSE cũng tăng. Người đầu tiên phát hiện ra điều này và thực hiện giao dịch sẽ kiếm được lời, nhưng để làm được bạn sẽ phải chuyển được dữ liệu từ New York về London, sau đó phát lệnh mua/bán xuyên qua Đại Tây Dương và cho phép tôi mua FTSE trước bất kỳ ai khác".

Nếu bạn nghĩ rằng con người mới đang là nhân tố điều khiển Phố Wall, suy nghĩ của bạn đang đi sau thời đại ít nhất là... 10 năm. Phố Wall giờ đã thuộc về các siêu máy tính, lợi nhuận được tính trên sự khác biệt phần nghìn giây... Tất cả là nhờ có các nhà phân tích định lượng.
Trong thế giới chứng khoán, tốc độ đã trở thành yếu tố quan trọng nhất. Các công ty môi giới bắt đầu "chạy đua vũ trang" về sức mạnh xử lý để trở thành người dẫn đầu. Thậm chí, các công ty còn tìm cách đặt máy chủ của mình gần các sàn giao dịch hơn nhằm giảm thiểu thời gian trễ cho kết nối.

Năm 2010, một công ty có tên Spread Networks đã tự xây dựng một hệ thống cáp xuyên qua dãy núi Allegheny để nối liền New York và Chicago. Đường cáp này giúp giảm thời gian chuyển tải thông tin giữa các sàn giao dịch không tới... 1 mili giây.


Để có thể sử dụng một đường cáp tương tự, ngân hàng mà Jones từng tham gia làm việc đã phải trả 50 triệu USD. "Khoản phí này cho phép chúng tôi được hưởng lợi thế... 1 phần 6.000 giây", Jones khẳng định.


Chạy càng nhanh thì càng dễ ngã


Chính sự tập trung quá mức vào các khoản lợi nhuận trong thời gian vô cùng ngắn ngủi đã khiến cho thị trường chứng khoán trở nên vô cùng mỏng manh. "Warren Buffet mua cổ phiếu tại Coca Cola, và khi cổ phiếu Coca Cola giảm giá ông nói ‘Tôi giữ cổ phiếu lại vì tôi nghĩ chúng sẽ tăng giá trở lại", Jones cho biết. "Nhưng với những người giao dịch HFT, tất cả những gì họ quan tâm sẽ đến ngay trong mili-giây tiếp theo. Khi mọi người cùng hoảng sợ về mili-giây tiếp theo, thị trường chứng khoán sẽ sụp đổ".


Ví dụ điển hình về một cuộc sụp đổ như vậy là vào ngày 6/5/2010. Trong ngày hôm đó, cổ phiếu được giao dịch ồ ạt tới mức sàn giao dịch trực tuyến của sàn New York bất ngờ ngừng hoạt động trong vòng 30 phút, từ 2:30 đến 3:00 chiều. Chỉ số Dow Jones hồi phục và thu lại được 1.000 tỷ USD chỉ trong vòng 30 phút. "Vụ Sụp đổ Chớp nhoáng" (Flash Crash) này đã khiến cổ phiếu của công ty tư vấn quản trị Accenture giảm còn gần... 0 đô la, còn cổ phiếu Apple thì tăng lên tận... 100.000 USD.


Dave Lauer, một nhà phân tích định lượng phụ trách HFT kể lại:


"Không một ai biết phải làm gì vào lúc đó, không ai biết điều gì sẽ xảy ra tiếp theo. Mọi thứ đáng sợ đến khủng khiếp".


Với Lauer, vụ Flash Crash là một hồi chuông cảnh tỉnh. "Tôi nhận ra rằng cuộc đua để trở thành người nhanh nhất đã khiến mọi thứ trở nên mong manh". Năm sau đó, khi vợ Lauer thông báo đã mang thai, anh đã đưa ra một quyết định quan trọng: từ bỏ công việc phụ trách HFT. Đến năm 2013, Lauer tuyên bố trong một buổi điều trần với Ủy ban Ngân hàng Thượng viện Hoa Kỳ rằng chính HFT đã khiến thị trường chứng khoán gặp khủng hoảng.


"Tôi nhớ rằng mình đã phải nghĩ, ‘Sẽ phải làm thế nào để giải thích với đứa con tương lai về công việc mình đang làm?'", Lauer kể lại.


Hẳn nhiên, chiến lược mua và bán trong vài phần nghìn của giây không thực sự xấu xa đến mức bạn phải băn khoăn giải thích với con cái của mình. Song, những hệ lụy mà HFT mang đến có thể là rất tồi tệ. Vụ Flash Crash xảy ra một phần là do chiến lược "spoofing" (tạm dịch: lệnh mua/bán giả mạo) rất phổ biến trong HFT. Vào ngày Flash Crash xảy ra, có tổng cộng 19,4 tỷ cổ phiếu đã được đem ra giao dịch. Số lượng giao dịch này thậm chí còn nhiều hơn cả toàn bộ thập niên 60 cộng lại, nhưng lượng cổ phiếu bị mua bán "giả" cũng lên tới hàng trăm triệu. Lệnh mua bán chỉ được đưa ra trong một vài phần nghìn giây để các nhà môi giới có thể phát hiện được ý đồ thực của các đối thủ cạnh tranh.


Quá trình lên ngôi của phân tích định lượng có phải là xấu xa?

Nếu bạn nghĩ rằng con người mới đang là nhân tố điều khiển Phố Wall, suy nghĩ của bạn đang đi sau thời đại ít nhất là... 10 năm. Phố Wall giờ đã thuộc về các siêu máy tính, lợi nhuận được tính trên sự khác biệt phần nghìn giây... Tất cả là nhờ có các nhà phân tích định lượng.
Rõ ràng, một hệ thống giao dịch sẵn sàng đẩy tất cả mọi người vào tình cảnh bấp bênh chỉ để làm giàu cho một vài quỹ đầu tư riêng lẻ không thể được coi là không có vấn đề. Liệu HFT có thể được coi là một sự đầu tư đáng giá về thời gian và công nghệ? Charlie Munger, một đối tác của Warren Buffet, đã từng lên tiếng chỉ trích HFT là một hình thức giao dịch "xấu xa về bản chất".

Ông khẳng định: "Tôi nghĩ rằng chúng ta đang rất ngu ngốc khi cho phép hệ thống tài chính tiến hóa tới mức có đến một nửa các giao dịch đến từ một nhóm người ngắn-hạn cố gắng thu thập thông tin sớm hơn những người khác chỉ một phần triệu của một nano-giây. Đây thực tế là front-running (nhà môi giới làm giàu bất chính bằng cách sử dụng thông tin của khách hàng) được hợp pháp hóa".


Rõ ràng, HFT không hề mang lại lợi ích gì cho các nhà đầu tư "bình dân" – những người dành dụm tiền tiết kiệm hoặc các quỹ chính sách xã hội.


Các nhà phân tích định lượng tài chính được phỏng vấn trong bài viết này đều cho rằng sự góp mặt của họ tại các công ty môi giới không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với rủi ro, nhưng ngược lại cũng bày tỏ một ý kiến nghi ngại:


"Một vài trong số chúng tôi, những người đến từ các ngành khoa học, toán học thuần túy, và bởi vậy đã quen với việc giải một bài toán giúp cho mọi thứ hoạt động tốt. Họ nghĩ rằng họ có thể tìm thấy một công thức xác định chính xác cách hoạt động của thị trường. Điều này là hoàn toàn không thể". Patrick Boyle cho rằng mối nguy hại ở đây là chỉ nhìn các con số mà quên mất yếu tố con người.

Nếu bạn nghĩ rằng con người mới đang là nhân tố điều khiển Phố Wall, suy nghĩ của bạn đang đi sau thời đại ít nhất là... 10 năm. Phố Wall giờ đã thuộc về các siêu máy tính, lợi nhuận được tính trên sự khác biệt phần nghìn giây... Tất cả là nhờ có các nhà phân tích định lượng.
Còn Simon Jones thì nhìn công việc của mình từ góc nhìn nhân văn:

"Một nhà phân tích định lượng có thể kiếm được số tiền một triệu đô, nhưng đôi khi tôi tự hỏi liệu mình đã góp phần tích cực cho xã hội hay chưa. Tôi đã làm việc với những người tuyệt vời nhất. Ngân hàng của tôi đã tuyển những kỹ sư tuyệt vời nhất, các nhà hóa học và khoa học thông minh nhất – và chúng tôi cùng nhau tìm cách làm giàu. Nhưng, chính vì nghề phân tích định lượng của chúng tôi mà ngành hóa học, vật lý và y tế lại trở nên tồi tệ hơn: nếu như có một hệ thống lương thưởng giống như những gì chúng tôi làm ra tại New York, chắc chắn chúng tôi đã tìm thấy lời giải cho căn bệnh ung thư từ lâu".


Đó là một sự thật đáng buồn và có phần đáng sợ. Nhưng, công việc phân tích định lượng tài chính có phải là một công việc thực sự xấu xa hay không?


"Con người chỉ mới tìm ra một cách tham lam khác mà thôi", Jones trả lời.



Share:

Thứ Bảy, 25 tháng 4, 2015

Thói quen ngủ của những người giàu có và nổi tiếng

Một số người giàu có, nổi tiếng và có tầm ảnh hưởng lớn trong lịch sử nhân loại có thói quen ngủ rất khác lạ.
  
Theo Trí Thức Trẻ
Share:

Thứ Sáu, 6 tháng 2, 2015

6 bài học ai cũng cần cho cuộc sống từ giới khoa học

Liệu bạn đã bao giờ tự hỏi rằng, bản thân mình học hỏi được gì từ những bộ não vĩ đại của những thiên tài sau thành tựu của họ?

Nói đến thiên tài hẳn bạn sẽ luôn muốn khám phá bên trong phần trí não và hiểu hơn về những điều không tưởng họ đã thực hiện. Cho dù đó là việc chế ra loại phương tiện nhanh nhất, giúp người mù nhìn thấy trở lại hay đột phá về mặt không gian thì thành công luôn phải gắn liền với việc nâng cao mức độ tri thức. 

Vậy chúng ta có thể học được điều gì từ trí tuệ của những con người xuất chúng? Hãy cùng tìm hiểu 6 bài học quý giá được rút ra từ các nghiên cứu về những thiên tài qua tổng hợp dưới đây.

Bài học số 1: Những thử thách mới đòi hỏi lối tư duy mới

Bạn đã bao giờ nảy ra ý tưởng sáng tạo một chiếc xe với một phần giống ô tô, phần giống máy bay phản lực lai với tàu vũ trụ? Hay bạn muốn sáng chế ra phương tiện giao thông mặt đất mang tên Bloodhound SSC có thể đạt đến vận tốc 1.000m/p?
 
Một trong những thử thách khó khăn nhất để hoàn thiện Bloodhound SSC là việc thiết kế lốp xe. Các chuyên gia vô cùng đắn đo khi làm sao để thiết kế ra những chiếc lốp xe có thể giúp xe di chuyển nhanh nhất thế giới, ổn định và chắc chắn khi xe đạt tốc độ siêu thanh ngay cả khi với nguồn lực hạn chế?

Sau rất nhiều suy tính về vấn đề công nghệ làm nên chất liệu lốp xe, Mark Chapman - kỹ sư trưởng của dự án Bloodhound đã cho rằng: Việc chỉ đi vào lối mòn suy nghĩ cũ chỉ khiến chúng ta thêm bế tắc. 

6 bài học ai cũng cần cho cuộc sống từ giới khoa học 2

Do đó họ đã chấp nhận một cách tiếp cận mới, tiến hành nhiều thí nghiệm thực tế rồi chắp nối tất cả những con số thống kê lại với nhau để xem xét. Kết quả thật đáng ngạc nhiên, một loại lốp xe mới đạt yêu cầu đã ra đời. Điều này càng chứng tỏ rằng, việc tạo ra những lối tư duy mới trước mỗi thử thách sẽ khiến bạn thành công.

Bài học số 2: Hãy để những bằng chứng dẫn lối cho bạn

Nhà địa vật lý Steven Jacobsen của Đại học Northwestern cùng những đồng nghiệp tin rằng, nguồn nước trên Trái đất được sinh ra từ các ngôi sao Chổi. 

Nhưng bằng việc nghiên cứu những hòn đá, ông phát hiện ra, nước ẩn bên trong khoáng chất ringwoodite - nhân tố nằm ngay trong chính lớp vỏ Trái đất.

6 bài học ai cũng cần cho cuộc sống từ giới khoa học 3
Điều này cũng giúp lý giải cho sự hình thành của các đại dương vốn được sinh ra từ trong lòng Trái đất hàng thế kỷ trước.

Nhà vật lý chia sẻ rằng: "Những phát hiện quan trọng này sẽ giúp ích rất nhiều trong những nghiên cứu tiếp theo của tôi. Thời gian sẽ chứng minh giả thuyết mà tôi đưa ra về Trái đất là đúng đắn. Trên thực tế, việc tìm ra những điều mới lạ thực sự khiến tôi rất hưng phấn - đó chính là nguồn động lực lớn, tạo tiền đề cho nghiên cứu của tôi".

Bởi vậy, các chuyên gia đã rút ra kết luận rằng, hãy để những bằng chứng tìm được dẫn lối bạn. Tiếp tục kiên trì, cuối cùng, bạn cũng sẽ tìm được điều bạn muốn.

Bài học số 3: Hãy cháy hết mình

Tiến sĩ khoa học Sheila Nirenberg tại Đại học Cornell đang cố gắng phát triển một loại thiết bị mới để hỗ trợ cho những người mù. Ý tưởng chính của thiết bị này là kích hoạt một loại tín hiệu giúp truyền thông tin từ mắt đến não. “Từ khi nảy ra ý tưởng này, tôi gần như quên ăn quên ngủ - tất cả những gì tôi muốn là làm việc”, Nirenberg chia sẻ.

6 bài học ai cũng cần cho cuộc sống từ giới khoa học 4
Cô nói thêm: “Đôi khi tôi cảm thấy mệt mỏi và hoàn toàn kiệt sức. Nhưng rồi chỉ cần nhận được email từ một ai đó đang bị thoái hóa điểm vàng và họ dường như hoảng loạn, không thể nhìn rõ mặt của con cái mình thì tôi lại như có thêm động lực. Điều đó cho tôi rất nhiều năng lượng để tiếp tục công việc mình đang làm. Cuối cùng tôi đã thành công".

Bài học số 4: Đáp án đôi khi không phải là thứ bạn nghĩ

Sylvia Earle đã dành hàng thập kỷ để cố gắng tìm hiểu về đại dương theo một cách hoàn toàn mới. Cô mơ ước sẽ có một loại tàu ngầm có thể đưa các nhà khoa học đến nơi sâu nhất của đại dương để nghiên cứu. Vậy loại vật liệu nào có thể chịu được áp suất khủng khiếp của đại dương ở nơi sâu hàng ngàn dặm dưới đáy biển? 

6 bài học ai cũng cần cho cuộc sống từ giới khoa học 5
Earle nói: “Đó có thể là thép, cũng có thể là titanium hoặc đôi khi là một phần sứ hoặc nhôm. Nhưng câu trả lời cuối cùng mà chúng tôi tìm ra lại là kính. Kính quả thực là một loại vật liệu siêu cấp”. 

Theo tính toán của cô, một khối cầu bằng kính mỏng với độ dày chỉ từ 10 - 15 cm là đủ để đảm bảo an toàn cho các nhà thám hiểm lặn xuống đáy đại dương.

6 bài học ai cũng cần cho cuộc sống từ giới khoa học 6
Theo Tony Lawson, kỹ sư điều hành tại dự án Tàu ngầm khám phá đại dương của Earle: "Kính là loại vật liệu phổ biến nhất và được con người biết đến đã từ rất lâu. Kính có cấu trúc phân tử phần nào giống với chất lỏng hơn là dạng xếp theo lưới mắt cáo hay được tìm thấy ở các chất khác. Chính vì vậy, khi bị dồn nén từ mọi phía với áp lực lớn như ở dưới đáy đại dương, các phân tử sẽ xích lại gần nhau hơn và làm cho kết cấu của nó trở nên bền chắc hơn”.

Bài học số 5: Đôi khi bạn cần may mắn song hành

Được xem là một trong những câu chuyện thành công nhất của lịch sử khám phá vũ trụ - bản kế hoạch được lên trong 20 năm đã kết thúc bằng việc tàu Philea đáp xuống Sao chổi 67P cách Trái đất 300 triệu dặm. 

Theo Stephan Ulamec - quản lý dự án, thử thách lớn nhất ở đây là thiết kế tàu thăm dò làm sao để Philea có thể hạ cánh an toàn trên một bề mặt mà người ta chưa xác định được chính xác đó là gì. 

6 bài học ai cũng cần cho cuộc sống từ giới khoa học 7
Ulamec chia sẻ: “Chúng tôi không biết gì về kích thước vật thể, múi giờ ngày và đêm, ảnh hưởng của nhiệt độ với thiết kế, hay cả vấn đề trọng lực, bề mặt vật thể trông thế nào để thiết kế lúc tàu hạ cánh”.

Tuy nhiên, dựa trên việc giả định rằng bề mặt Sao Chổi giống như một củ khoai tây mà tàu thăm dò có thể hạ cánh, các chuyên gia đã tạo ra một thiết kế có thể đương đầu với mọi loại thông số của cấu trúc bề mặt vật thể đó. 

6 bài học ai cũng cần cho cuộc sống từ giới khoa học 8
Tuy vậy, mọi thứ không hoàn toàn diễn ra theo đúng kế hoạch - hai thập kỷ chuẩn bị kỹ lưỡng, tính toán từng chi tiết cho bản thiết kế có thể chỉ thất bại trong vài phút ngắn ngủi. 

Mỏ neo của Philea đã không phóng ra theo như kế hoạch và bị bong mất trước khi tàu thăm dò đáp xuống bề mặt sao chổi và bắt đầu truyền tín hiệu về. Bởi vậy, các nhà khoa học cho rằng, yếu tố may mắn cũng đóng góp một phần không nhỏ trong thành công của những nghiên cứu.

Bài học số 6: Thiên tài là một định nghĩa mơ hồ

Nhiều người cho rằng, ai đó phát minh ra một ý tưởng mới lạ, độc đáo hay có sáng chế tuyệt vời là những thiên tài. Tuy nhiên theo tiến sĩ Sheila Nirenberg, thiên tài là một định nghĩa hoàn toàn mơ hồ. Bởi bên ngoài thế giới kia còn rất nhiều những thiên tài ẩn giấu khác mà chúng ta chưa khai phá. 

6 bài học ai cũng cần cho cuộc sống từ giới khoa học 9

Kiến thức vô cùng sâu rộng và không ai có thể tự tin nói rằng "tôi là thiên tài - tôi biết mọi điều trên thế giới này". Vì thế, bạn hãy cứ làm theo những gì bạn đam mê, khoa học bao la luôn rộng mở chào đón những "thiên tài". 

Nguồn: BBC
 
Theo
Tường Minh / Trí Thức Trẻ
 
Share:

Thứ Năm, 20 tháng 11, 2014

Steve Jobs - Cuộc đời của những khác biệt

Đến bây giờ, chúng ta có thể đúc kết cuộc đời của Steve Jobs- bậc thầy kinh doanh và công nghệ chỉ trong mấy chữ “Khác biệt tạo ra sự khác biệt”.

 
Qua tiếp xúc trực tiếp, qua các cuốn tự truyện, hồi ký của những người từng gần gũi với Steve, người ta đã chỉ ra nhiều khác biệt trong con người ông với thế giới xung quanh, thể hiện qua những câu nói và hành động.
Share:

Thứ Bảy, 25 tháng 10, 2014

Cần phải thông minh bao nhiêu để thành công?

Điều gì dẫn đến một thiên tài sáng tạo? Liệu Picasso và Mozart có sử dụng trí thông minh siêu phàm của họ để tạo ra những tác phẩm vĩ đại hay không? 
Một câu hỏi tương tự là…

Cần phải thông minh bao nhiêu để trở thành một doanh nhân thành công? Cần phải trải qua bao nhiêu khóa huấn luyện để trở thành một vận động viên thành công? Hay chương trình giảm cân hoàn hảo nào cần để đốt cháy được năng lượng trong cơ thể?

Đây là những câu hỏi mà chúng ta thường ít khi thắc mắc nhưng lại luôn tin tưởng và hành động theo rất nhiều cách khác nhau. Chúng ta thường nghĩ lý do không thành công là bởi không tìm ra chiến lược chính xác hoặc bởi chúng ta không sinh ra với những tài năng vượt trội.

Điều này có thể là sự thật. Hoặc có thể nằm ở một trong những vấn đề được nêu dưới đây:

Những manh mối

Vào năm 1921, có một nhà tâm lý học đến từ Đại học Stanford có tên là Lewis Terman đã thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu không giống với bất kỳ nghiên cứu nào trước đó.

Terman bắt đầu tìm kiếm 1.000 sinh viên thông minh nhất tại California (Mỹ) đạt cấp 3 và cấp 8 trong thang đo chỉ số IQ. Sau rất nhiều lần kiểm tra và nghiên cứu, Terman thu thập được mẫu cuối cùng gồm 856 sinh viên nam và 672 nữ. Những đứa trẻ này được gọi là “The Termites”.

Terman và các cộng sự bắt đầu kiểm tra các sinh viên này bằng rất nhiều cách. Họ theo dõi IQ, thống kê xem bao nhiêu quyển sách các sinh viên có tại nhà, xem xét lịch sử bệnh lý của từng người và rất nhiều cách khác nữa. Tuy nhiên, đây chỉ là những bước bắt đầu.
Vậy điều gì khiến nghiên cứu của Terman trở thành độc nhất? Đó là bởi đây là nghiên cứu theo chiều dọc đầu tiên được thực hiện, nghĩa là Terman tiếp tục theo dõi và kiểm trả những đối tượng nghiên cứu trong nhiều năm sau đó.

Nghiên cứu hiện tại nổi tiếng với tên gọi “Genetic Studies of Genius”, thu thập dữ liệu từ những sinh viên thông qua toàn bộ cuộc sống của họ. Terman thu thập thêm dữ liệu vào những năm 1928, 1936, 1940, 1945, 1950 và 1955. Sau khi Terman chết vào năm 1956, các đồng nghiệp của ông ấy tiếp tục theo dõi The Termites vào năm 1960, 1972, 1977, 1982 và 1986.

Tổng kết lại, nghiên cứu bắt đầu với một nhóm sinh viên thông minh nhất trong toàn bang California và sau đó theo dõi thành công của họ trong suốt cuộc sống. Vài thập kỷ sau đó, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra một số điều hết sức thú vị.

Lý thuyết ngưỡng

Khám phá đáng ngạc nhiên nhất đến từ nghiên cứu của Terman được miêu tả: “Mặc dù nhiều người tiếp tục đánh đồng sự thông minh với thiên tài, một kết luận quan trọng của Terman cho thấy có chỉ số IQ cao không đồng nghĩa với việc có chỉ số sáng tạo cao”. Những nghiên cứu tiếp theo bởi các nhà nghiên cứu khác đã củng cố thêm kết luận của Terman, dẫn tới “lý thuyết ngưỡng”.

Lý thuyết này cho rằng ở mức cao hơn mức hiện tại, sự thông minh không có nhiều ảnh hưởng tới sự sáng tạo. Hầu hết những người sáng tạo đều khá thông minh nhưng họ không phải bắt buộc thông minh, ít nhất là theo sự đo lường bởi bài kiểm tra sự thông minh thông thường. “Một người có chỉ số thông minh 120 cho thấy họ rất thông minh nhưng không thể kết luận họ là một tiên tài sáng tạo”.

Hãy nhớ tới câu hỏi ban đầu của bài báo là: “Liệu Picasso và Mozart có sử dụng trí thông minh siêu phàm để tạo ra những kiệt tác hay không?”.

Theo như “Lý thuyết ngưỡng” thì câu trả lời dường như là không. Đứng trong top 1% những người thông minh nhất không tương quan với sự sáng tạo tuyệt vời. Hơn thế, có một ngưỡng tối thiểu của sự thông minh mà bạn cần có và sau đó bạn cần tiếp tục luyện tập và phát triển các kỹ năng.

Lý thuyết ngưỡng xuất hiện hàng ngày trong cuộc sống

Nếu nhìn quanh, bạn sẽ thấy “Lý thuyết ngưỡng” áp dụng trong rất nhiều phần của cuộc sống. Thành công hiếm khi đơn giản như chúng ta vẫn nói là “chỉ cần chăm chỉ là đủ”. Có một nguyên tắc cơ bản: Có một ngưỡng tối thiểu về năng lực mà bạn cần để phát triển trong bất kỳ nỗ lực nào.

Sau cùng, sự khác biệt giữa những người chăm chú vào công việc và những người bị phân tâm. Một khi bạn đã nắm bắt được những điều cơ bản phải làm, nó sẽ trở nên phù hợp để làm những điều đúng đắn thường xuyên hơn. Một khi bạn hiểu những nguyên tắc cơ bản, nó sẽ trở thành thói quen.
 Theo Infonet
Share:

Thứ Tư, 24 tháng 9, 2014

Thói quen sinh hoạt của những người thông minh nhất thế giới

Những người thông minh nhất thế giới cũng có cả thói quen sinh hoạt tốt và xấu. 

Share:

Thứ Ba, 16 tháng 9, 2014

Tại sao bạn không bao giờ có thể đầu tư được như Warren Buffett?

Bất kỳ ai cũng có thể đầu tư vào những cổ phiếu không mấy hấp dẫn theo phong cách Warren Buffett. Nhưng không phải ai cũng có thể đi vay với lãi suất rẻ như Buffett và Berkshire Hathaway. 
Warren Buffett được cho là nhà đầu tư vĩ đại nhất của mọi thời đại. 
Không giống như một số nhà đầu tư nổi tiếng khác, những người vút cánh bay qua bức tường rào rủi ro- lợi nhuận và tăng tốc chạy nước rút mỗi lần đầu tư, Buffett được biết đến với mức lợi nhuận có biên độ dao động thấp trong khoảng thời gian rất dài.

Trong một bài viết trên tạp chí nghiên cứu kinh tế NBRE chỉ ra rằng, những mức lợi nhuận của Buffett dường như không phải may mắn cũng hay phép thuật gì, mà đúng hơn đó là phần thưởng đối với việc sử dụng đòn bẩy kết hợp với sự tập trung đầu tư vào những cổ phiếu rẻ, an toàn và có chất lượng." 

Hay nói cách khác, Warren Buffett mua cổ phiếu được nhiều người cho rằng không mấy hấp dẫn nhưng có sự ổn định, lợi tức thấp nhưng ông khuếch đại những mức lợi tức này bằng cách đặt cược với tiền vay. 

Trong bài nghiên cứu có tiêu đề Buffett’s Alpha của Andrea Frazzini, David Kabiller và Lasse Pedersen thuộc khoa kinh tế thuộc đại học Yale, 3 tác giả này cho biết: "Chúng tôi ước tính tỷ lệ đòn bẩy trung bình của Buffett là khoảng 1,6: 1 (tỷ lệ tổng vốn chủ sở hữu, nợ, bảo hiểm thả nổi so với vốn chủ sở hữu)

Vậy bạn có thể sao chép chiến lược đầu tư của Buffett? 

Câu trả lời ngắn gọn là có và không. 

Bất kỳ ai cũng có thể đầu tư vào những cổ phiếu không mấy hấp dẫn theo phong cách Warren Buffett. Nhưng không phải ai cũng có thể đi vay với lãi suất rẻ như Buffett và Berkshire Hathaway. 

Nhóm tác giả này đã xác định ít nhất có 4 lý do giải thích tại sao Buffett có thể đi vay với mức chi phí rẻ đến như vậy:

Ngoài việc cân nhắc mức độ đòn bẩy của Buffett, đó cũng là điều thú vị khi xem xét các nguồn tài trợ công cụ đòn bẩy của tỷ phú này bao gồm các điều khoản và chi phí của chúng. Khoản nợ của Berkshire được hưởng lợi nhờ việc được xếp hạng cao, thường ở mức AAA từ năm 1989 đến năm 2009. Đây là một minh họa về việc đi vay chi phí tài chính thấp đem lại lợi ích cho Buffett: năm 2002, lần đầu tiên Berkshire phát hành một loại tín phiếu cấp cao có bảo đảm với mức lãi suất âm. 

Ngoài ra đòn bẩy tài chính của Bershire cũng khá đặc biết xuất phát từ các khoản kinh doanh bảo hiểm thả nổi của tập đoàn này. Việc thu trước phí bảo hiểm và sau đó trả lãi thành một khoản được đa dạng hóa cũng được xem xét như một khoản vay. 

Thống kê từ nghiên cứu này cho thấy chi phí ước tính trung bình hàng năm đối với những khoản bảo hiểm của Berkshire chỉ là 2,2%, thấp hơn 3 điểm phần trăm so với lãi suất trung bình trái phiếu T-bill do chính phủ phát hành. Từ đó, chi phí bảo hiểm thấp và hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm của Berkshire đã cho Warren Buffett lợi thế đáng kể trong việc tiếp cận đặc trưng để có đòn bẩy giá rẻ và dài hạn. Theo ước tính của 3 tác giả, 36% các tài sản nợ của Berkshire gồm các bảo hiểm thả nổi trên mức trung bình.
Tại sao bạn không bao giờ có thể đầu tư được như Warren Buffett? (1)
Nguồn: Buffett’s Alpha, tác giả: Andrea Frazzini, David Kabiller và Lasse Pedersen 

Dựa trên các dữ liệu bảng cân đối kế toán, Berkshire cũng xuất hiện một phần tài trợ tài chính đến từ việc chi tiêu vốn bằng cách dùng tiết kiệm thuế từ khấu hao nhanh tài sản, máy móc thiết bị theo quy định theo quy định của IRS. Ví dụ, Berkshire báo cáo có khoản tài sản nợ hoãn thuế (DTL) 28 tỷ USD trong năm 2011. Đẩy nhanh khấu hao cũng tương tự như một khoản vay không lãi suất có ý nghĩa với Berkshire: thứ nhất Berkshire thích tiết kiệm thuế sớm hơn so với việc không thực hiện điều đó, thứ hai số tiền thuế khi được trả trong tương lai cũng giống như các khoản tiết kiệm sớm (nghĩa vụ thuế không tính lãi tích lũy hay lãi gộp).

Những tài sản nợ còn lại của Berkshire bao gồm các khoản phải trả và công cụ nợ hợp đồng chứng khoán phái sinh. Berkshire từng bán được một số lượng lớn hợp đồng phái sinh, bao gồm cả quyền chọn chỉ số trên một số cổ phiếu lớn, đặc biệt là quyền chọn bán, và nghĩa vụ bảo lãnh tín chấp vỡ nợ. Berkshire cho biết: 

Chúng tôi đã nhận được những phần bù rủi ro từ các hợp đồng này đầy đủ vào ngày hợp đồng thành lập… Chỉ với một số ngoại lệ hữu hạn, những quyền chọn bán chỉ số và những hợp đồng tín chấp vỡ nợ không có tài sản đảm bảo không thay đổi về gái trị nội tại hay giá trị thực của hợp đồng hay làm hạ xếp hạng tín dụng của Berkshire. - Trích báo cáo thường niên Berkshire Hathaway Inc., năm 2011. 

Do đó, doanh thu từ việc bán các công cụ phái sinh của Bershire có ý nghĩa về 2 mặt: như là một nguồn tài chính và là một nguồn thu nhập khi các công cụ này có xu hướng trở nên đắt đỏ (Frazzini và Pedersen (2012)). Frazzini và Pedersen (2012) cho thấy các nhà đầu tư hoặc là không thể hoặc không muốn sử dụng đòn bẩy sẽ trả tiền phần bù cho công cụ được nhúng đòn bẩy, hợp đồng quyền chọn và ETFs dụng đòn bẩy. Do đó, Buffett có thể thu lợi lợi nhuận bằng cách cung cấp chúng như cách ông có khả năng tiếp cận đặc trưng với nguồn cho tài chính ổn định và rẻ. 

Vì vậy, trừ khi bạn có một tập đoàn bảo hiểm hàng tỉ đô với mức xếp hạng AAA còn không bạn sẽ không có khả năng để đầu tư được như Warren Buffett.
Share:

Thứ Hai, 15 tháng 9, 2014

Lịch sinh hoạt của các thiên tài

Các bộ óc của những người sáng tạo, những nghệ sĩ vĩ đại có suy nghĩ và lập trình khiến họ sinh hoạt rất khác nhau. 

 
Các bộ óc của những người sáng tạo, những nghệ sĩ vĩ đại có suy nghĩ và lập trình khiến họ sinh hoạt rất khác nhau. Khám phá ban đầu về nhịp sống của các nghệ sĩ, nhà văn và nhạc sĩ lớn cho thấy các thói quen, sinh hoạt và làm việc hàng ngày của họ không ai giống ai.
 Nếu như Pablo Picasso đi ngủ lúc 2g đêm và chào ngày mới lúc 11g trưa thì Honorre’ de Balzac lên giường ngủ lúc 6g tối và chào bình minh lúc 1g đêm. Ông ngủ trưa vào lúc 8-10g sáng.


Franz Kafka ngủ lúc 6-8g sáng và 3-7g chiều. Haruki Murakami ngủ từ 9g tối tới 4g sáng. Beethoven ngủ từ 9g tối đến 6g sáng, ông thức dậy và uống một tách cà phê có đúng 60 hạt cà phê sau đó làm việc một mạch từ 6g sáng tới 2g chiều. Tuy nhiên, số đông trong họ đều có tật thức khuya và họ cũng không ngủ trưa.

“Khi tôi hoàn toàn với bản thân mình, trọn vẹn một mình … hay trong suốt đêm khi mà tôi không thể ngủ, đó là những khi ý tưởng của tôi chảy tốt nhất và dồi dào nhất”, Wolfgang Amadeus Mozart nói.

Hầu hết những con người vĩ đại này đều thể dục bằng cách đi dạo và nhìn chung đều… lười thể dục. John Milton đi dạo trong vườn từ 1-4g chiều. Haruki dạo từ 12g đến 1g trưa. Nhà văn Nhật Bản nói: “Tôi không thay đổi thói quen mỗi ngày. Sự lặp lại đó như một thuật thôi miên. Tôi thôi miên bản thân mình để đạt được một trạng thái sâu sắc hơn về tâm trí”.

Còn Immanuel Kant lại đi dạo 3-4g chiều. Kurt Vonnegut di dạo và bơi từ 10 đến 11g 30 sáng. Nếu Victor Hugo tập thể dục nặng từ 1-3g chiều thì Charles Dickens đi dạo quanh London từ 2-5g chiều, có lẽ vì thế mà ông thu được vào mắt nhiều cảnh sinh hoạt ở thành phố này và đưa vào tác phẩm. Ông từng nói: “Tôi đã không bao giờ có thể làm những gì tôi đã làm mà không có thói quen đúng giờ, trật tự, và sự siêng năng, không có sự quyết tâm để tập trung bản thân mình vào một việc tại thời điểm đó”.

Thời gian họ dành cho thư giãn và uống ăn gần tương đương với thời gian làm việc. Các nghệ sĩ, nhà văn vĩ đại đều tập trung sáng tạo vào đêm khuya và sáng. Buổi chiều một số họ dùng để giải quyết công việc tại văn phòng (nếu có) hay làm việc thêm một vài giờ, sau đó dành thời gian cho gia đình, gặp bạn bè, đọc sách, nghe nhạc, nấu ăn.

Riêng Mary Flannery O’connor dành 12g trưa tới 8g tối để chăm sóc chim, tiếp khách, vẽ và các thú vui. Bà chỉ làm việc từ 9 đến 12g trưa. Picasso chỉ dành có 5 giờ một ngày cho việc ăn và gặp bạn bè, nghỉ ngơi, còn lại ông chỉ vẽ và ngủ.

Gustave Flaubert còn “ki bo” hơn, ông chỉ dành có 3 giờ một ngày cho việc ăn, chăm sóc mẹ. Họ hầu hết dành thời gian nhiều cho sáng tạo, trừ một vài người lại làm việc hàng ngày và ngủ, nghỉ ngơi nhiều hơn sáng tạo.

Hầu hết các nhân vật sáng tạo vĩ đạo đều ngủ ít. Vì thế, nếu bạn muốn thành công, việc đầu tiên có lẽ đừng ngủ quá nhiều.
Share:

Trang

Nổi bật

Giới siêu giàu kiếm tiền từ đâu?