Kiến thức chứng khoán - Kinh nghiệm đầu tư chứng khoán

Hiển thị các bài đăng có nhãn thương hiệu. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn thương hiệu. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 5 tháng 6, 2016

Câu chuyện thương hiệu qua bức tranh Đôi bàn tay cầu nguyện

Vào thế kỷ XV, tại một làng nhỏ của nước Đức, có một gia đình có tới 18 người con. Cha của họ phải làm việc tới 20 tiếng đồng hồ mỗi ngày mà cả gia đình chỉ đủ để đắp đổi qua ngày. Thế nhưng, hai người con lớn trong nhà vẫn có nhiều mơ ước. Cả hai đều muốn học vẽ vì họ có năng khiếu từ nhỏ.

Sau không biết bao nhiêu buổi nói chuyện suốt đêm trên chiếc giường đông chật anh em, hai người con lớn có một quyết định. Họ sẽ tung một đồng xu. Người thua sẽ làm thợ mỏ, dùng toàn bộ thu nhập để chu cấp cho người thắng đi học. Còn người thắng, sau bốn năm học, sẽ chu cấp tài chính cho người còn lại đi học, dù bằng cách bán tranh hay phải đi làm thợ mỏ.

Đồng xu được tung lên, Albrecht thắng cuộc và được đi học. Albert thua, đi tới vùng mỏ đầy nguy hiểm và trong suốt bốn năm, làm lụng để nuôi người em của mình ăn học.

Gần như ngay lập tức, những tác phẩm của Albrecht được rất nhiều người nhắc đến, bởi chúng thậm chí còn đẹp hơn cả tác phẩm của các bậc thầy trong trường. Và cho đến khi tốt nghiệp thì Albrecht đã bán được khá nhiều tranh và dành dụm được một khoản tiền.

Khi anh trở về, trong bữa ăn sum họp, Albrecht đứng dậy để cảm ơn người anh trai đã hy sinh bốn năm giúp mình hoàn thành được ước mơ. Và Albrecht nói:

– Anh Albert, bây giờ đã đến lượt anh. Anh hãy tới Nuremberg để theo đuổi ước mơ của mình. Em sẽ lo toàn bộ chi phí và chăm sóc gia đình.

Albert mỉm cười, rồi bật khóc:

– Không, anh không thể tới Nuremberg được. Đã quá muộn rồi. Bây giờ, sau bốn năm làm việc trong hầm mỏ, không còn ngón tay nào của anh là lành lặn. Thậm chí bây giờ anh còn bị thấp khớp ở tay phải nặng tới mức không thể nâng nổi một chiếc ly, nói gì đến việc cầm cọ vẽ. Cảm ơn em, nhưng bây giờ đã quá muộn rồi…

Hơn năm trăm năm đã qua. Cho tới bây giờ, hàng trăm bức chân dung, tranh màu nước, tranh than chì, tranh khắc gỗ và khắc đồng… của Albrecht Durer đã được treo ở những viện bảo tàng lớn nhất thế giới. Nhưng có một điều kỳ lạ, có thể bạn, cũng như nhiều người, đều chỉ quen thuộc với một tác phẩm của Albrecht Durer. 

Đó là một ngày, để tỏ lòng kính trọng và biết ơn anh trai Albert, Albrecht Durer đã thực hiện một tác phẩm cẩn thận nhất trong đời: vẽ lại đôi bàn tay của anh trai mình, với lòng bàn tay hướng vào nhau và những ngón tay gầy guộc hướng lên trên. Ông gọi bức tranh của mình là Đôi bàn tay cầu nguyện.
Đó là câu chuyện đằng sau bức tranh Đôi bàn tay cầu nguyện của Albrecht Durer, bức tranh ấy sẽ cũng chỉ dừng lại là một bức tranh đẹp nếu không có một câu chuyện với giá trị nhân văn đi kèm. Tương tự, một sản phẩm cũng sẽ bình thường như bao sản phẩm khác nếu người bán không kể cho khách hàng nghe về câu chuyện đặc biệt đằng sau sản phẩm ấy.

Ngày nay, người ta gọi câu chuyện đằng sau những sản phẩm là câu chuyện thương hiệu. Không phải thương hiệu nào cũng có thể kể thành công câu chuyện thương hiệu của mình, phải nói rằng sản phẩm là phần thể xác, còn câu chuyện thương hiệu là tâm hồn. Khi nào người mua sản phẩm cảm nhận được những giá trị vô hình đằng sau sản phẩm, khi đó người kể chuyện thương hiệu đã thành công.

Bạn đã bao giờ hình dung tại sao khi người dùng sử dụng chiếc điện thoại iPhone, họ lại thấy bản thân thật… đẳng cấp, để rồi theo dõi đến từng động thái của thương hiệu Apple hay không? Hay giới trẻ, họ có bao giờ tự hỏi tại sao mình yêu thích nước ngọt Coca-Cola mà không phải một thương hiệu khác? Đơn giản là vì những con người đằng sau những thương hiệu ấy đã truyền vào “phần hồn” sản phẩm thông qua những câu chuyện mà ta không nhìn thấy, hoặc không để ý tới. Ví dụ câu chuyện về một Steve Jobs đằng sau một Apple, hay những “viral clip” mang thông điệp hạnh phúc đằng sau Coca-Cola.
Hai thương hiệu kể thành công “câu chuyện thương hiệu”

Khi ngắm nhìn bức tranh đôi bàn tay của họa sĩ Albrecht Durer, người ta không khỏi thán phục tài năng hội họa của ông, rồi lại bồi hồi vì ý nghĩa câu chuyện đi kèm sau bức tranh ấy. Nắm bắt được điều này, các nhà làm thương hiệu ngày nay luôn tìm cách đưa yếu tố cảm xúc tác động vào hành vi mua sắm của khách hàng để có thể “dẫn dắt” họ. Đó cũng là lý do mà Coca-Cola luôn theo đuổi một thông điệp lớn: “Làm cho thế giới hạnh phúc hơn”, nếu quan sát chúng ta sẽ thấy mọi viral clip của Coca-Cola luôn đi kèm thông điệp hạnh phúc.

Ngày nay, nhờ vào sự phát triển của truyền thông và sự phát triển vượt bậc của những công cụ sáng tạo nội dung, các thương hiệu không khó để kể câu chuyện của mình, nhưng rất ít thương hiệu làm được. Lý do là vì câu chuyện ấy chưa thật, hoặc chưa phải là câu chuyện hay nhất. 


Sẽ ra sao nếu đằng sau bức tranh Đôi bàn tay cầu nguyện của Albrecht Durer là một câu chuyện dở tệ, chẳng mang giá trị nhân văn nào. Khi ấy giá trị bức tranh cũng sẽ giảm hẳn, tương tự khi kể chuyện cho sản phẩm cũng vậy. 

Phải là một câu chuyện chân thật, câu chuyện hay nhất mà thương hiệu lựa chọn để kể. Khi ấy, “phần hồn” của sản phẩm mới thuyết phục được khách hàng, khách hàng sẽ rung động khi đứng trước sản phẩm bởi câu chuyện đằng sau nó.
(DNSGCT)

Share:

Thứ Hai, 26 tháng 10, 2015

Ở nhà sang, đừng quên cư xử như một quý ông

26% phụ nữ đến từ những hộ gia đình có thu nhập hơn $100,000/1 năm là nạn nhân của bạo lực tình dục và thể xác từ chính người bạn đời, cứ 4 nạn nhân này thì có 1 phụ nữ tốt nghiệp đại học hoặc cao hơn.
http://www.blogchungkhoan.com/2015/09/mo-tai-khoan-tu-van-au-tu-chung-khoan.html#.Vi43B26fdFq

Tạp chí Home là một trong những cái tên hàng đầu trong ngành xuất bản về kiến trúc, thiết kế, hãng mô tả bản thân là: "sự lan truyền cảm hứng từ những ngôi nhà sang trọng, đồng thời giới thiệu những nhà hàng, xu hướng nghệ thuật, đồ nội thất và gia dụng mới nhất." Ấn bản gần đây nhất của tạp chí Home đã khiến nhiều độc giả bất ngờ khi khắc họa một ngôi nhà với những bí mật ẩn giấu đằng sau.
Cuốn tạp chí mở đầu hoàn toàn bình thường, với một loạt hình chụp bên ngoài căn nhà và giới thiệu về gia đình Ashworth và ngôi nhà hiện đại ở Auckland nơi họ đã sinh sống được hơn 4 năm.

Nhưng trong bức hình thứ 2, có một thứ tựa như một vệt máu trên bức tường gần cầu thang:
Bài giới thiệu về ngôi nhà không có lý giải gì thêm. Nhưng trong góc dưới cùng bên phải, người xem có thể thấy một đoạn giải thích: toàn bộ câu chuyện là minh họa cho tình trạng bạo lực gia đình, nhằm nâng cao nhận thức rằng bạo lực gia đình cũng xảy ra với giới thượng lưu ở New Zealand.
"Bạo lực gia đình có thể xảy ra ở mọi nơi. Chỉ riêng năm ngoái, cảnh sát đã điều tra hơn 100,000 vụ bạo lực gia đình trên cả nước. Và đây chỉ là những vụ việc mà chúng ta được biết. Nếu bạn nghi ngờ ai đó xung quanh đang phải đối mặt với bạo lực gia đình, xin đừng thờ ơ. Dù bạn sống ở đâu, bạo lực gia đình là điều không thể chấp nhận được. Để giúp đỡ, hãy truy cập areyouok.org.nz."

FCB New Zealand đã tham gia vào một chiến dịch chống lại bạo lực gia đình hợp tác với tạp chí Home và tổ chức It's Not OK (tổ chức vận động chống lại tình trạng bạo lực gia đình). Nhiều thông tin đã được tiết lộ trong chiến dịch: 26% phụ nữ đến từ những hộ gia đình có thu nhập hơn $100,000/1 năm là nạn nhân của bạo lực tình dục và thể xác từ chính người bạn đời, cứ 4 nạn nhân này thì có 1 phụ nữ tốt nghiệp đại học hoặc cao hơn. 

"Mọi người đều hiểu rằng bạo lực gia đình là một vấn đề nghiêm trọng, nhưng hầu hết chúng ta mặc định rằng vấn đề đó chỉ ảnh hưởng tới một số đối tượng nhất định," theo Jeremy Hansen, biên tập của tạp chí Home. "Nhưng trên thực tế, tình trạng này xảy ra với mọi gia đình trên New Zealand, với mọi tầng lớp xã hội. Đây là lý do tại sao trong ấn bản mới của mình, Home kết hợp với tổ chức It's Not OK để nhắc nhở người đọc rằng tình trạng này có thể ảnh hưởng tới mọi gia đình- và nếu điều đó thật sự xảy ra, mỗi người chúng ta luôn có thể làm được một điều gì đó."
Hồng Nhung
Theo Trí Thức Trẻ

Share:

Thứ Bảy, 8 tháng 8, 2015

Ý nghĩa tên gọi các công ty nổi tiếng thế giới

Bạn đã bao giờ tự hỏi rằng các công ty nổi tiếng hiện nay trên thế giới đã từng chọn tên gọi như thế nào?

Nhờ thành công trong việc xây dựng thương hiệu và hình ảnh, khách hàng đã quá quen với tên gọi của các công ty này nhưng không nhiều người biết đến ý nghĩa đằng sau nó. Chẳng hạn như "Lego" là sự kết hợp tài tình giữa hai từ Đan Mạch có nghĩa là “chơi đẹp”.

Đằng sau mỗi cái tên của các công ty sau đây đều là một câu chuyện hấp dẫn.

Theo Business Insider/Trí Thức Trẻ
 
Share:

Thứ Tư, 22 tháng 7, 2015

Dữ liệu trong marketing: Hiểu đúng - dùng hay

Data-driven marketing là việc tận dụng dữ liệu để tối ưu hóa quảng cáo và quảng bá thương hiệu. Quá trình này bao gồm việc thu thập, phân tích dữ liệu từ khách hàng như thói quen, hành vi, mong muốn, hoàn cảnh… của họ để tối ưu hóa hiệu quả các chiến dịch marketing.
Phương pháp tối ưu để làm marketing hiệu quả

Kể từ khi có quảng cáo online đầu tiên xuất hiện trên thế giới vào 1994, ngân sách chi cho hoạt động này chưa bao giờ giảm. Đến 2015, thế giới đã chi 150 tỷ USD cho quảng cáo online, trong đó, khu vực Châu Á – Thái Bình Dương chiếm 1/3 ngân sách này, diễn giả Đinh Lê Đạt - Tổng giám đốc
Công ty Giải pháp quảng cáo trực tuyến ANTS, chuyên gia Big data của Tập đoàn FPT cho biết tại hội thảo "Định hướng dữ liệu, nâng tầm marketing" do báo Doanh Nhân Sài Gòn tổ chức ngày 16/7.
Ông Đạt cũng cho biết thêm, Việt Nam thuộc khu vực tăng trưởng mạnh, có tiềm năng lớn trong các hoạt động tiếp thị trên internet cũng đã chi 320 triệu USD cho quảng cáo online, tăng gấp 10 lần sau 5 năm. Tuy nhiên, số doanh nghiệp biết sử dụng data-driven vẫn chưa nhiều, dẫn đến hiệu quả marketing chưa cao.

Bà Nguyễn Phương Anh - Giám đốc marketing thị trường Việt Nam thuộc Google Châu Á - Thái Bình Dương dẫn chứng, tại Việt Nam có đến 41 triệu người online hàng ngày, trong đó, người dùng sử dụng internet 5 giờ và 3 giờ sử dụng mạng xã hội, đứng thứ 3 Đông Nam Á. Do đó, kênh online rất quan trọng, có thể tiếp cận người dùng gấp 3 lần các chương trình truyền hình. Doanh nghiệp cần sử dụng kênh online để tiếp cận khách hàng, quảng bá thương hiệu, thấu hiểu khách hàng và xử lý khủng hoảng kịp thời.
Bà Nguyễn Phương Anh - Giám đốc marketing thị trường Việt Nam thuộc Google Châu Á - Thái Bình Dương 

Không chỉ vậy, các doanh nghiệp cần tận dụng nguồn data-driven, để thấu hiểu khách hàng và xây dựng được những chiến lược marketing hiệu quả. Ông Đạt cho biết, dữ liệu này có hai dạng: Một là các dữ liệu khách hàng do chính doanh nghiệp nắm giữ như: số liệu đơn hàng trong ngày, khách hàng quan tâm nội dung gì trên trang web của doanh nghiệp, sản phẩm bán được ở địa phương nào tốt nhất…

Hai là, những dữ liệu doanh nghiệp phải mua từ bên thứ 3 cung cấp: hành vi, sở thích, xu hướng tìm kiếm trên internet của khách hàng… thường được thu thập từ mạng xã hội và các công cụ đo lường khác. Nhờ những dữ liệu này mà doanh nghiệp có thể hiểu được một khách hàng trong một khoảng thời gian cụ thể quan tâm, thích thú với điều gì…

Từ đó, doanh nghiệp có thể thiết kế những chương trình tiếp thị phù hợp với nhu cầu, sở thích của khách hàng hoặc xây dựng những chương trình chăm sóc đặc biệt nhờ sự thấu hiểu khách hàng.
Ông Đạt nhấn mạnh, data-driven là một xu hướng tất yếu trong việc xác định chiến lược marketing hiện nay khi các doanh nghiệp trên toàn cầu chi hơn 30% ngân sách tiếp thị cho việc này chứ không chỉ đơn thuần là treo banner hay đăng bài PR thuần túy như trước đây.

Hoạt động này cho phép doanh nghiệp ước lượng được hiệu quả từng chiến dịch marketing, sẽ tiếp cận đến đối tượng khách hàng nào, bằng cách nào… nhằm tiết kiệm chi phí, thu hiệu quả cao.

Nguồn dữ liệu quý giá luôn có sẵn

Diễn giả Đinh Lê Đạt cho biết, việc tập hợp dữ liệu không khó khi có khoảng 20 công cụ rất phổ biến mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng có thể đã sử dụng qua, như Google Analytics là ví dụ điển hình.

Bên cạnh đó, email marketing cũng là một trong những kênh hiệu quả nhất vì thương hiệu không phải tốn thời gian và công sức để tìm kiếm khách hàng mới mà hoàn toàn có thể tận dụng nguồn khách hàng cũ với độ trung thành khá cao – những người đã từng tương tác, từng mua hàng trên website - bằng cách chăm sóc họ, cụ thể là gửi email marketing để cung cấp những thông tin hữu ích và gợi ý họ quay trở lại mua hàng.


Ông Nguyễn Hải Triều – Tổng giám đốc Younet Media về giải pháp theo dõi, nghiên cứu thương hiệu, người dùng và tiếp thị trên mạng xã hội cho biết, Facebook cũng là một kênh thông tin quý giá để có thể nắm bắt được khách hàng đang nghĩ gì, có thái độ ra sao đối với từng mặt hàng cụ thể.
Ông Triều dẫn chứng, bằng việc theo dõi các chia sẻ trên Facebook và các diễn đàn của các bà mẹ, Younet Media hiểu được nhóm khách hàng này rất quan tâm đến việc chọn loại sữa nào cho con bú. Đồng thời, từng chi tiết trong thành phần sữa, nhãn hiệu, bao bì, giá cả đều ảnh hưởng đến quyết định mua hàng của họ. Do đó, “nếu một hãng sữa đổi mẫu mã mà không truyền thông kỹ càng, khách hàng sẽ từ chối sử dụng sản phẩm sữa của doanh nghiệp đó vì lo ngại hàng giả”, ông Triều nói.
Bà Phương Anh dẫn chứng thêm, bằng việc phân tích dữ liệu một khách hàng thường xuyên đặt vé máy bay trước 1 – 2 ngày, phần lớn họ là doanh nhân, muốn chủ động việc đi lại và không quan tâm về giá cả. Do đó, các doanh nghiệp có thể gửi đến khách hàng này các gợi ý về khách sạn, phương tiện đi lại cao cấp. Những quảng cáo về các dịch vụ giá rẻ sẽ không tiếp cận được với đối tượng này.  Ngược lại, đối với khách hàng thường xuyên “săn” vé máy bay giá rẻ, các doanh nghiệp nên đẩy mạnh quảng cáo các chương trình khuyến mãi để tiếp cận khách hàng tốt hơn.

Từ những ví dụ về sự hữu ích của việc phân tích dữ liệu, ông Đinh Lê Đạt khẳng định: “Không có data driven thì không thể có chiến dịch marketing online hiệu quả”.

Hiểu được dữ liệu mới là điều quan trọng

Với sự hỗ trợ của công nghệ, việc có được dữ liệu khách hàng hiện nay khá dễ dàng. Tuy nhiên, diễn giả Vũ Hoàng Yến – Giám đốc Marketing Zalora Việt Nam nhấn mạnh: “Quan trọng nhất là doanh nghiệp phải hiểu được những dữ liệu mình có”.

Đồng quan điểm, bà Phương Anh chia sẻ: "Nếu doanh nghiệp tìm dữ liệu “chỉ để cho vui” thì số lượng thông tin ngồn ngộn này sẽ mang đến cảm giác loãng và họ sẽ không biết cách sử dụng chúng hiệu quả. Vì vậy, trước tiên bạn phải xác định được mình muốn tìm loại dữ liệu gì”.

"Bằng cách hiểu dữ liệu, chúng tôi nắm được hành vi, sở thích của khách hàng. Từ đó, trong mỗi email marketing Zalora gửi khách hàng đều mang tính chọn lọc kỹ càng phù hợp từng đối tượng”, bà Vũ Hoàng Yến chia sẻ.

Bà Yến cho ví dụ, Zalora sẽ cung cấp thông tin các sản phẩm thời thượng cho những khách hàng đã từng mua nhiều sản phẩm đắt tiền, đưa thông tin mẫu giày mới cho những khách hàng thường xuyên click xem mặt hàng này hoặc gửi thông tin về các chương trình khuyến mãi cho những khách hàng thích “săn” hàng giảm giá…

“Nhờ hiểu dữ liệu, doanh nghiệp xác định đúng đối tượng khách hàng và có bộ lọc tốt, việc gửi email với nội dung phù hợp sẽ tăng giá trị thương hiệu, thêm cơ hội tăng doanh thu cho doanh nghiệp. Ngược lại, việc gửi những email marketing tràn lan, thiếu chọn lọc sẽ khiến hiệu quả tiếp thị không cao, thậm chí khiến khách hàng có ác cảm với thương hiệu”, bà Yến cho biết.

Việc định hướng đúng mục đích và tối ưu hóa nguồn dữ liệu khổng lồ (big data) có thể mang đến sự tăng trưởng về nhiều mặt cho chiến dịch marketing như: hiệu quả bán hàng, trải nghiệm người dùng đối với dịch vụ, hiệu quả ROI marketing, lợi nhuận, tăng trưởng kinh doanh, độ nhận diện thương hiệu, nguồn vốn đầu tư…

Do đó, ông Đạt chia sẻ, doanh nghiệp nên thay đổi tư duy marketing, thay vì tăng chi phí để tìm thêm khách hàng mới thì phát triển, thu thập dữ liệu để chăm sóc thật tốt những khách hàng đã có. Nhờ vậy, doanh nghiệp sẽ có được nhiều khách hàng trung thành, xây dựng hình ảnh thương hiệu tốt và thu hút thêm khách hàng mới.
(Doanh Nhân Sài Gòn)
Share:

Thứ Năm, 2 tháng 7, 2015

Tạo dựng thương hiệu kiểu Donald Trump

Donald Trump luôn định vị rõ ràng. Tên tuổi của ông đồng nghĩa với nghĩa với thành công và tài sản.

Nếu bạn là người hay đọc tin tức thì bạn không thể không biết đến tên tuổi của Donald Trump. Và nếu như bạn đang quản lý một công ty thì sẽ có nhiều bài học quan trọng cho bạn học hỏi từ con người này, trong đó đáng chú ý nhất là ở lĩnh vực thương hiệu cá nhân. Có thể nói không ngoa rằng ông là người tạo dựng được thương hiệu cá nhân hiệu quả hơn hầu như bất kì doanh nhân nào hiện còn sống.

Vậy chúng ta hãy xem có học hỏi được gì từ ông không nhé?

1. Định vị rõ ràng

Donald Trump luôn định vị rõ ràng. Tên tuổi của ông đồng nghĩa với nghĩa với thành công và tài sản. Trong 10 năm qua, bạn có bao giờ thấy ông được phỏng vấn về cái gì khác chưa? Rất hiếm. Ông gắn tên tuổi mình với những gì ông nói, làm và ở bất kì nơi nào ông xuất hiện. Ông rất rõ ràng trong thông điệp mà mình muốn truyền tải, về bản thân và về công ty mình. Năm này qua năm khác đều như vậy.

Hãy so sánh với hầu hết các doanh nhân khác: họ không chắc chắn là thương hiệu của mình đại diện cho các gì, cũng không “trước sau như một” trong cách định vị bản thân họ. Kết quả là, hầu hết các CEO và doanh nhân khác đều có thương hiệu cực kì yếu.

Hãy hỏi bản thân bạn điều này: Chính xác là tôi, hay công ty của tôi, đại diện cho cái gì? Và chúng ta có đang thể hiện điều đó trong tất cả những thứ chúng ta nói và làm không?


 2. Không phải dành cho tất cả mọi người

Đây là khía cạnh rất quan trọng của việc tạo thương hiệu và thường được hiểu không đúng. Để có một thương hiệu rất mạnh, bạn phải giữ vững quan điểm về điều gì đó. Bạn phải sẵn lòng trở nên khác biệt, tách bạch mình với những người còn lại. Khi bạn làm thế, sẽ có những người không đồng ý với bạn và sẽ ghét bạn vì điều đó. Bạn sẽ nhận được những lời gièm pha.

Để được biết đến, bạn có thể hoặc là được thích hoặc là bị ghét. Thật vậy, bạn không thể tạo ra những fan “cuồng” mà không đi đôi với tạo ra những người không “ưa” gì bạn. Bất kì ai mà không có anti-fan đều không có một thương hiệu mạnh. Nếu bạn chọn cách an toàn và sợ làm phật lòng người khác thì bạn có thể không có người ghét nhưng bạn cũng sẽ có ít người ngưỡng mộ mình sâu sắc.
Trump hiểu điều này. Ông ấy khá sẵn sàng cho việc bị nhiều người ghét vì biết rằng ông đang trở nên được nhiều người biết đến. Bạn có thể sẽ không muốn được chú ý giống như cách của Trump, nhưng bạn phải được chuẩn bị sẵn sàng để khác biệt, thậm chí là gây tranh cãi, nếu bạn muốn phát triển một thương hiệu mạnh.

3. Hãy cho thế giới biết mình là ai

Một trong những lỗi chính mà các CEO thường mắc phải là họ trải qua bao khó khăn để phát triển được một thương hiệu tốt và rồi họ... “im hơi lặng tiếng” với thế giới.

Nếu tiếp tục như thế thì 18 tháng tới có lẽ thương hiệu của họ sẽ hầu như... “chìm nghỉm”.
Nên nhớ rằng cho dù thương hiệu của bạn tốt như thế nào nhưng nếu bạn không cho thế giới biết mình là ai thì bạn sẽ không bao giờ nổi tiếng.

Có quá nhiều sự cạnh tranh trong cuộc sống, có quá nhiều ồn ào do giới truyền thông mang lại. Bạn có thể không thích quảng bá bản thân hay công ty nhưng bạn phải làm điều đó nếu bạn muốn nhận được tất cả những lợi ích mà một thương hiệu xuất sắc cần phải có. Không có thời gian cho những người rụt rè, nhút nhát.

Bạn không cần phải làm theo cách của Donald Trump, nhưng bạn phải “ồn ào” theo cách riêng của bạn. Cũng đừng chỉ “ồn ào” một lần, phải liên tục, trong nhiều năm. Đó là cách mà những thương hiệu bền vững nhất được xây dựng.

Liệu Donald Trump có trở thành tổng thống Mỹ trong cuộc bầu cử sắp tới không? Có lẽ là không, và Trump biết thế. Nhưng ông ấy cũng biết rằng cho dù điều gì xảy ra đi nữa thì ông cũng sẽ “thắng”, vì ông sẽ càng được biết đến nhiều hơn, và thương hiệu của ông sẽ trở nên mạnh hơn trên toàn thế giới. Cả đời Trump đều dành cho việc xây dựng thương hiệu và ông biết rằng chạy đua cho chiếc ghế tổng thống là một cách để làm điều đó.

Tóm lại, dĩ nhiên là chúng ta không cần phải giống như Donald Trump, nhưng những kĩ năng tạo dựng thương hiệu của ông ấy là điều rất đáng học hỏi.
(Theo Trí Thức Trẻ/Forbes)
>> 7 lời khuyên của Donald Trump cho người khởi nghiệp
Share:

Thứ Tư, 10 tháng 6, 2015

Đã hết thời của những "Người hùng vô danh"

Người hùng vô danh (Hidden Champions) ám chỉ những công ty đứng đầu thế giới trong vài chục năm và luôn quan niệm: Không được nhắc tên trên truyền thông là một điều tốt.
- Đã qua rồi thời kỳ “Hãy làm tốt nhất có thể nhưng đừng nói nhiều về nó”. "Người hùng vô danh" của ngày hôm nay sẽ phải chịu đựng nhiều thiệt thòi về việc tiếp cận tín dụng, khó hấp dẫn đối tác và khó hấp dẫn với ứng viên tuyển dụng khi danh tiếng không được biết đến.

- Media Tenor dẫn Báo cáo Global 500 của Brand Finance cho biết, trung bình, 24% giá trị của công ty nằm ở thương hiệu.

- Tần suất nên xuất hiện của một công ty trên báo chí và giới truyền thông, hay còn gọi là ngưỡng nhận thức (Awareness threshold), thường ở mức 1 – 2 bài/tháng trên TV hay trên báo tuần, và khoảng 5 – 6 bài/tháng trên báo ngày.


Khái niệm Người hùng vô danh được Roland Schatz – Sáng lập viên kiêm Giám đốc điều hành Công ty Media Tenor International – đưa ra tại Hội thảo đào tạo CEO với chủ đề Danh tiếng mạnh giúp phát triển doanh nghiệp diễn ra sáng 18/5.

“Cái họ lý luận là chúng tôi sản xuất ra sản phẩm tốt nhất trên thế giới, qua đó mọi người biết đến công ty tôi, chứ không cần biết đến bản thân tôi. Cũng giống như một người bạn học từng nói với tôi: “Hãy làm tốt nhất có thể nhưng đừng nói nhiều về nó”. Đây là phương thức tiếp cận không tồi, nhưng trong thế giới ngày hôm nay, điều này không còn đúng nữa” – ông Schatz cho biết

24% giá trị công ty nằm ở thương hiệu

Theo ông Schatz, các Người hùng vô danh sẽ chịu 3 thiệt thòi.

Một là, khó tiếp cận tín dụng từ các ngân hàng, giới tài chính.

“Những lúc không thể dùng vốn tự có để phát triển, mở rộng doanh nghiệp, nếu công ty của bạn không có tiếng tăm, bản thân giới tài chính không biết bạn là ai. Khi là Người hùng vô danh, các điều kiện tín dụng sẽ không được tốt như các doanh nghiệp có tiếng” – ông Schatz cho biết.

Hai là, khó hấp dẫn các đối tác trong chuỗi cung ứng. Nếu bạn là người có danh tiếng tốt, sẽ có rất nhiều người, nhiều đối tác trong chuỗi cung ứng cũng muốn làm việc với bạn.

Ba là, khó hấp dẫn với tư cách nhà tuyển dụng. “Người già, người trẻ sẽ không chọn làm việc cho bạn mà sẽ muốn làm việc cho Goldman Sachs, cho Samsung... Ngay với các chương trình đào tạo, khi trước đây khi tuyển dụng chỉ cần quảng cáo, nhưng điều này không còn đúng sau cuộc khủng hoảng thời gian trước”, ông Schatz phân tích.

Khi “có danh”, các điều trên đều diễn biến theo chiều ngược lại.

Danh tiếng (Reputation), theo Media Tenor, là một cái tên tốt, hoặc một niềm tin vào công ty được xây dựng trên sự trải nghiệm. Nói một cách dễ hiểu hơn, là cách thức mọi người nói với nhau về công ty đó như thế nào.

Mặc dù danh tiếng không thể đo đếm được bằng các phương thức tính toán truyền thống, Media Tenor dẫn Báo cáo Global 500 của Brand Finance cho biết, trung bình, 24% giá trị của công ty nằm ở thương hiệu.
Các công ty màu xanh phát triển công ty họ dựa trên nền tảng của sự bền vững. Giá trị cổ phiếu của họ tăng khá đều. Trong khi đó, các công ty màu nâu quan hệ tốt hơn với giới truyền thông, giá trị cổ phiếu của họ tăng hơn nhiều so với các công ty khác. Nguồn: Media Tenor.
Các công ty màu xanh phát triển công ty họ dựa trên nền tảng của sự bền vững. Giá trị cổ phiếu của họ tăng khá đều. Trong khi đó, các công ty màu nâu quan hệ tốt hơn với giới truyền thông, giá trị cổ phiếu của họ tăng hơn nhiều so với các công ty khác. Nguồn: Media Tenor.
Tính minh bạch xuyên suốt và hình ảnh tốt về các vấn đề bền vững có thể tạo ra sự khác biệt trong mắt các Quỹ đầu tư và các tổ chức đầu tư.

Tần suất xuất hiện trên truyền thông bao nhiêu là đủ?

Theo ông Schatz, danh tiếng không thể nhìn hay cảm nhận, nhưng nó ảnh hưởng tới tất cả mọi khía cạnh của hoạt động kinh doanh của công ty gồm: Doanh thu, chi phí tài chính...

“Đôi khi các bạn tự hỏi tại sao doanh thu của một công ty tăng khủng khiếp, những người tài đều muốn xin việc tại công ty lớn đó... Điều này không ảnh hưởng bởi quảng cáo, mà bởi danh tiếng của họ. Khi mọi người mở báo đọc tin tức, theo dõi truyền hình, hay lên các mạng xã hội đều đọc được các thông tin của công ty đó” – ông Schatz nói.
“Việc quản trị danh tiếng không chỉ để người khác thích, hay không thích công ty của bạn, mà đây còn có thể coi như một chính sách bảo hiểm để chúng ta tránh khỏi các khủng hoảng về truyền thông và về danh tiếng”.

Có 2 cách để tiếp cận quản trị danh tiếng: Quản trị theo kiểu tháp nghiêng Pisa hoặc quản trị theo kiểu Mỹ.

Tháp nghiêng Pisa: Mọi người chỉ biết đến tháp nghiêng này mà không hề biết ngay gần tháp này có thư viện, nhà thờ... hay nói cách khác là quang cảnh xung quanh nó. Nói một cách đơn giản, các công ty quản trị danh tiếng kiểu này vẫn được giới truyền thông nhắc đến, nhưng chỉ biết đến một khía cạnh nhỏ, như người ta chỉ biết đến tháp Pisa mà không biết đến xung quanh nó có những gì.

Quản trị kiểu Mỹ: Họ nói rất nhiều đến những việc họ đang làm. Vậy nên, dù có vấn đề gì, mọi người đều đã nhìn thấy bức tranh toàn cảnh.

Tần suất nên xuất hiện của một công ty trên báo chí và giới truyền thông, hay còn gọi là ngưỡng nhận thức (Awareness threshold), theo Media Tenor, thường ở mức 1 – 2 bài/tháng trên TV hay trên báo tuần, và khoảng 5 – 6 bài/tháng trên báo ngày.

Dưới ngưỡng này, công ty có thể coi như “vô hình”, hay “vô danh”. “Vào thời đại bây giờ, những công ty nào không được nhìn thấy được coi như không tồn tại” – GĐ điều hành Media Tenor nhận định.

“Đây là sự chuẩn bị rất tốt để chống lại các khủng hoảng về truyền thông vì các công ty này luôn xuất hiện trên nhiều bản tin”.

“Nếu chúng ta không có một cơ chế quản trị danh tiếng phù hợp, không có sự trao đổi thường xuyên với giới báo chí, khi công ty có vấn đề xảy ra như: Hack dữ liệu, ảnh hưởng do tổn hại môi trường, phải thu hồi sản phẩm và các lỗi do kiểm soát chất lượng..., chúng ta sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều về danh tiếng”.
(Theo Tri Thức Trẻ)
>> Mười điều tạo thành công cho chiến lược marketing

Share:

Thứ Tư, 13 tháng 5, 2015

3 bài học marketing sản phẩm từ tỷ phú Jack Dorsey

Tỷ phú Jack Dorsey nổi tiếng là một trong những “bộ óc” công nghệ hàng đầu thế giới với vai trò nhà đồng sáng lập Twitter và người khai sinh công ty thanh toán điện tử Square.

Jack Dorsey được vinh danh là một trong 35 nhà sáng tạo hàng đầu thế giới ở độ tuổi dưới 35. Tuy nhiên, nhiều người còn chưa biết rằng Jack Dorsey cũng là một “phù thủy” trong marketing sản phẩm. Dưới đây là 3 bài học trong lĩnh vực này từ vị doanh nhân - tỷ phú trẻJack Dorsey.

1/ Làm nổi bật “sứ mệnh” của sản phẩm

Khi còn là học sinh trung học, Jack Dorsey từng làm việc ở cửa hàng cà phê của mẹ mình. Trong quá trình làm việc, Jack nhận thấy cửa hàng đáng ra có thể tiết kiệm được nhiều chi phí hơn nếu chấp nhận thanh toán bằng thẻ.

Sau đó, khi làm việc cho ông chủ thổi thuỷ tinh Jim McKelvey - người sau này là đồng sáng lập công ty Square với Jack Dorsey - Jack cũng quan sát và ước đoán rằng Jim McKelvey mất khoảng 2.000 USD mỗi tháng vì không thể chấp nhận cho khách hang thanh toán bằng thẻ.

Điều đó đã dẫn Jack đến việc điều tra ngành công nghiệp thẻ tín dụng, và hiểu ra rằng đối với các doanh nghiệp nhỏ, việc chấp nhận thẻ tín dụng vô cùng phức tạp và chi phí khá cao.

Square chính là giải pháp của Jack để tạo ra cách thức tiết kiệm chi phí, minh bạch và thuận tiện cho doanh nghiệp. Với Square, các cửa hàng, dù lớn hay nhỏ đều có thể chấp nhận thanh toán bằng thẻ tín dụng.

Công ty thanh toán điện tử Square thực sự đã giải quyết một vấn đề tồn đọng trên thị trường. Do vậy, việc marketing cho giải pháp của Square trở nên khá đơn giản.

Bài học dành cho doanh nghiệp: Khi marketing sản phẩm, doanh nghiệp cần làm nổi bật “sứ mệnh” của sản phẩm - giải quyết được một vấn đề hay một nhu cầu chưa từng được giải quyết.

2/ Sử dụng sức mạnh của nghệ thuật kể chuyện

Với vai trò diễn giả, Jack Dorsey đã chia sẻ một bài giảng trên Góc khởi nghiệp của Trường ĐH Standford rằng, để phát triển sản phẩm phù hợp với nhu cầu của thị trường cũng như marketing sản phẩm hiệu quả, bạn cần đặt mình vào chính vị trí của khách hàng hay người sử dụng sản phẩm để nhìn nhận, đánh giá sản phẩm. Nói cách khác, bạn cần tạo ra câu chuyện với xuất phát điểm từ phía khách hàng.

Với việc giải thích yếu tố khác biệt của sản phẩm bằng một câu chuyện, tất cả mọi người đều có thể hiểu sản phẩm của bạn.

Cần nhớ, không phải tất cả khách hàng đều có kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực kỹ thuật hay tài chính, do vậy bạn cần phải viết câu chuyện mà tất cả mọi người đều có thể hiểu sản phẩm, thấy sự liên quan với sản phẩm, và nhận ra rằng mình cần sản phẩm này.

Jack đã nói rằng: “Nếu trong câu chuyện của bạn, tất cả các sản phẩm, thiết kế, tính năng, cấu phần… của sản phẩm sẽ đều ăn khớp và trở thành những phần bổ trợ cho nhau, bạn đã thành công. Khi đó, đồng thời tất cả mọi nhân sự trong doanh nghiệp của bạn cũng sẽ liên hệ tới câu chuyện đó, từ nhân viên chăm sóc khách hàng, bộ phận thiết kế, kỹ sư… đều sẽ thấy được vai trò của mình trong câu chuyện này”.

Bài học cho doanh nghiệp: Sau khi xác định một vấn đề của thị trường mà doanh nghiệp có thể giải quyết, hãy marketing bằng cách kể một câu chuyện thật đơn giản, cụ thể xoay quanh khách hàng và hãy tự hỏi trong câu chuyện này, sản phẩm của bạn đóng vai trò như thế nào. Khi câu chuyện đơn giản tới mức bất kỳ khách hàng nào cũng có thể hiểu được, có thể nói, bạn đã thành công.

3/ Giúp khách hàng sớm hiểu ra giá trị của sản phẩm

Những ngày đầu của Twitter, mạng xã hội này gặp phải một vấn đề: Họ có rất nhiều người dùng đăng ký tài khoản, nhưng đó không phải những người dùng lâu dài.

Vấn đề nằm ở chỗ những người sớm từ bỏ sử dụng mạng xã hội này chính là những người chưa thực sự hiểu được giá trị của sản phẩm. Dorsey đã nghiên cứu những người dùng mạng xã hội này và phát hiện ra một điểm khác biệt rất rõ rệt giữa những người tiếp tục sử dụng Twitter và những người không.

Dorsey đã nhận ra là những người tiếp tục sử dụng là những người có theo dõi 5 hoặc nhiều hơn 5 người dùng khác.

Việc theo dõi ít nhất 5 người dùng khác giúp một người dùng hiểu được giá trị của Twitter. Giải pháp ở đây chính là hợp lý hoá quy trình đăng ký giúp người dùng theo dõi ít nhất 5 người dùng khác thật sớm.

Để đạt được điều này, Twitter đã đưa ra một số quyết định cho người dùng trong quy trình đăng ký.
Trước đó, sau khi đăng ký xong, người dùng được tự do khám phá trang Twitter. Nhưng hiện nay, khi một người đăng ký tài khoản mới, Twitter đưa ra cho họ một danh mục những lĩnh vực họ quan tâm, từ đó, gợi ý họ theo dõi những người dùng họ có thể quan tâm và muốn theo dõi trước khi Twitter chính thức cài đặt và hoàn tất quy trình đăng ký tài khoản cho họ.

Sự thay đổi nhỏ này đã mang lại giá trị lớn cho Twitter, đó là giúp khách hàng hiểu được giá trị của Twitter hơn – đây là chiếc cầu nối để họ liên hệ với bạn bè của mình, và họ muốn chia sẻ nó với những người khác trong mạng lưới quen biết của mình.

Như thế, Twitter không chỉ “giữ chân” được nhiều khách hàng hiện tại hơn mà còn nhận được sự trợ giúp từ họ để có thêm nhiều khác hàng mới.

Vậy bạn có thể làm gì để đảm bảo khách hàng của mình sẽ hiểu được ý nghĩa và tận dụng nhiều nhất từ sản phẩm hay dịch vụ của mình? Vấn đề hay thách thức nào trên thị trường bạn đang giải quyết và bạn sẽ kể câu chuyện gì xoay quanh sản phẩm của mình?

Việc trả lời được những câu hỏi trên sẽ giúp doanh nghiệp bạn tiến gần hơn tới việc giành được nhiều khách hàng hơn cũng như chiếm lĩnh được thị phần cao hơn.
Theo TRẦN HUYÊN
preditableprofit/Doanh nhân Sài Gòn

Share:

Chủ Nhật, 19 tháng 4, 2015

Công thức thành công của thương hiệu Heinz

Yếu tố cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng trong công thức thành công của thương hiệu Heinz là việc trung thành với cam kết chất lượng đã đặt ra từ những ngày đầu.

Sau gần 2 thế kỷ tồn tại và phát triển, trải qua bao nhiêu thăng trầm cùng nền kinh tế thế giới, thương hiệu Heinz là một trong số ít những thương hiệu lâu đời vẫn ăn nên làm ra và tiếp tục mở rộng tầm ảnh hưởng ra khắp thế giới. Nhưng bí quyết gì giúp cho một cái tên “lão làng” có thể giữ được sự tươi mới và uy tín lâu như vậy ? Bài viết này phân tích những yếu tố chủ chốt trong việc đóng góp nên thành công vang dội và bền bỉ của đế chế Heinz

1. Quảng cáo, quảng cáo và quảng cáo

Ngay từ lúc mới thành lập một công ty sản xuất thực phẩm mang tên mình, người sáng lập Henry John Heinz đã rất chú trọng việc đầu tư cho những ý tưởng quảng cáo táo bạo để thu hút sự chú ý của người tiêu dùng tới sản phẩm của mình, trong khi hầu hết các đối thủ cạnh tranh của ông còn chưa hề nghĩ tới tầm quan trọng của việc làm cho các bà nội trợ nhớ tên sản phẩm sử dụng hằng ngày. Bản thân Henry Heinz thường xuyên gây kinh ngạc cho người xung quanh bởi khả năng sáng tạo ra những ý tưởng quảng cáo vô tiền khoáng hậu.

Một trong những dấu ấn khó phai của Henry John Heinz trong lĩnh vực quảng cáo là câu slogan ấn tượng và bí hiểm “57 varieties”. Nhiều người cho rằng đây là số lượng các sản phẩm của công ty ông khi đó, nhưng trên thực tế thì thời điểm này công ty của Heinz đã sản xuất được hơn 60 loại mặt hàng.

Trái với những lời đồn đoán, Heinz chia sẻ rằng ông nảy ra ý tưởng về câu slogan này khi đang đi tàu điện ngầm ở New York và liếc thấy một cửa hàng bán giày với tấm biển quảng cáo ghi “21 styles of shoes”. Ngay lập tức người đàn ông nhạy bén này nhận ra rằng những quảng cáo của thương hiệu mình cũng cần được gắn với một con số nhất định để cho dễ nhớ.

Sau khi cân nhắc nhiều phương án, cuối cùng con số 57 được ông lựa chọn, và chỉ trong vòng một tuần nó xuất hiện dày đặc trong tất cả các biển quảng cáo, biển hiệu, nhãn dán, tạp chí…khắp cả nước. Từ đó tới nay mặc dù đại gia đình Heinz đã sở hữu một bộ sưu tập vô cùng phong phú các sản phẩm, nhưng con số 57 vẫn được in trang trọng trên tất cả các nhãn hàng như một con số may mắn mang tính chất xuyên suốt quá trình hình thành phát triển của thương hiệu này.

 Logo 57 Varieties và biểu tượng quả dưa chuột xanh trên nhãn mác các sản phẩm của Heinz

Một thời gian sau, Heinz lại làm các mặt báo phát sốt với một chiến dịch quảng cáo thành công không kém liên quan tới những quả dưa chuột. Số là trong một lần tham gia triển lãm các sản phẩm nông nghiệp, các mặt hàng của hãng Heiz được trưng bày ở trên tầng 2, nhưng khách tham quan tỏ ra kém nhiệt tính tới mức chẳng buồn leo lên cầu thang để đi lên tầng.

Heinz bèn nghĩ ra cách phân công một vài thanh niên trẻ đứng phát cho khách hàng những chiếc thẻ trắng với nội dung có thể đổi thành quà lưu niệm tại triển lãm sắp tới của công ty.  Món quà lưu niệm này chính là hình một quả dưa chuột màu xanh, dài khoảng 1.25 inch có khắc dòng chữ “Heinz” và được gắn thêm một cái móc để treo vào dây đeo đồng hồ.

Ý tưởng táo bạo của Heinz thành công rực rỡ, người ta yêu thích “quả dưa chuột xanh” tới mức tờ New York Times từng mô tả rằng “Sàn nhà nơi đặt quầy hàng của Heinz như sập xuống vì sức nặng của những đoàn khách ùn ùn kéo tới”. Từ đó trở đi nhắc tới Heinz là người ta nghĩ ngay đến những quả dưa chuột nhỏ màu xanh, và truyền thống tặng quà lưu niệm của thương hiệu Heinz vẫn được lưu giữ tới ngày nay.

Tiếp nối tư tưởng của người sáng lập, những đời chủ tịch sau của thương hiệu này cũng luôn chú trọng phát triển những quảng cáo ngắn gọn, súc tích nhưng ấn tượng. Nhờ có cá tính độc đáo trong mỗi hoạt động marketing mà thương hiệu Heinz nhanh chóng được người tiêu dùng toàn thế giới nhớ đến.

2. Không câu nệ người ngoài

Sau khi lâm vào tình trạng gần như phá sản những năm 1875, công ty của Heinz được hồi sinh dưới dạng một doanh nghiệp gia đình do Henry John Heinz và những người họ hàng thân thiết góp vốn thành lập. Tuy nhiên khác với nhiều công ty gia đình khác quá coi trọng việc phải  “truyền ngôi” cho người trong dòng họ, dẫn đến đôi khi lựa chọn một cách khiên cưỡng người chưa có đủ năng lực để chèo lái con thuyền thương hiệu, công ty Heinz lại không dẫm phải vết xe đổ đó. Hội đồng quản trị sẵn sàng đưa những người có thực lực không thuộc dòng họ mình lên vị trí cao nhất của công ty, với mục tiêu cao nhất là đưa thương hiệu Heinz ngày càng làm ăn phát đạt.
 
Ảnh 2: Heinz meanz Beanz – một trong những slogan rất được yêu thích của Heinz

Một trong những người “ngoại tộc” đầu tiên trở thành chủ tịch tập đoàn Heinz là Anthony J.F.O’Reilly. Dưới sự điều hành của ông này, thương hiệu Heinz tiếp tục mở rộng thị phần với tốc độ như vũ bão, đồng thời một loạt thay đổi được áp dụng để tiết giảm chi phí, tăng hiệu quả lợi nhuận, tiêu biểu như việc sử dụng chai thủy tinh mỏng hơn để đựng sốt cà chua, giảm kích cỡ hộp cá ngừ StarKist, tái sử dụng nguồn nhiệt và nước nóng trong quá trình sản xuất của nhà máy…. 
Cũng chính nhờ sự cởi mở và coi trọng nhân tài nên công ty của Heinz luôn tìm được những người thuyền trưởng lỗi lạc, duy trì được những quyết định sáng suốt, những hướng đi đúng đắn trong nền kinh tế nhiều biến động

3. Mua bán sáp nhập và đa dạng hóa sản phẩm

Ngày nay, sản phẩm của Heinz đã không còn gói gọn trong những loại sốt, tương, thực phẩm hỗ trợ bữa ăn hằng ngày nữa, mà mở rộng ra thực phẩm dành cho trẻ sơ sinh, thức ăn dinh dưỡng… Để có được một đế chế như ngày nay, thương hiệu này đã trải qua một quá trình dài không ngừng tích lũy thêm các nhãn hiệu mới, bằng cách nghiên cứu triển khai các dòng sản phẩm khác nhau, hoặc mua lại các doanh nghiệp đã có kinh nghiệm trong việc sản xuất loại sản phẩm đó. Dù bằng cách này hay cách khác thì Heinz luôn biết cách đánh giá thị hiếu của người tiêu dùng và tìm ra những mặt hàng đáp ứng kịp thời xu thế biến động của thị trường.
 
Ảnh 3: Danh mục những nhãn hàng chủ lực của thương hiệu Heinz

Giờ đây gần như những sản phẩm bà nội trợ cần đều có thể tìm thấy ở trong danh mục sản phẩm của Heinz. Chính sách này vừa giúp Heinz khai thác tối đa lượng cầu trên thị trường, vừa củng cố lợi thế và uy tín thương hiệu cho doanh nghiệp này.

4. Cam kết chất lượng

Yếu tố cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng trong công thức thành công của thương hiệu Heinz là việc trung thành với cam kết chất lượng đã đặt ra từ những ngày đầu. Mọi công đoạn sản xuất của Heinz đều có chu trình khép kín với các tiêu chí chất lượng nghiêm ngặt, nhờ đó sản phẩm làm ra có độ đồng đều cao về chất lượng. Để người tiêu dùng cảm thấy yên tâm về loại thực phẩm họ đang ăn mỗi ngày, Công ty này thường xuyên tổ chức cho khách hàng tới tham quan nhà máy sản xuất và theo dõi quy trình chế biến của mình.

Bên cạnh đó, mặc dù dành khá nhiều lợi nhuận vào hoạt động mua bán sáp nhập và quảng cáo, trên thực tế tỷ lệ lợi nhuận mà Heinz sử dụng cho việc tái đầu tư vào nghiên cứu phát triển là cao nhất.

Một ví dụ điển hình cho chất lượng vượt thời gian của thương hiệu này là loại sốt cà chua trứ danh Heinz ketchup. Tới tận ngày nay, dung dịch nước sốt này vẫn giữ nguyên độ đặc sánh như lần đầu tiên ra mắt (thậm chí còn đặc hơn), mặc dù để sản xuất ra thứ sốt đậm đặc như vậy đòi hỏi lượng cà chua nguyên liệu đầu vào lớn hơn rất nhiều. Chính vì luôn trung thành với cam kết chất lượng của mình nên sau rất nhiều năm vẫn chưa có nhãn hiệu sốt cà chua nào khác có thể vượt qua được Heinz ketchup về mức độ tín nhiệm của người tiêu dùng.

 Theo Trí Thức Trẻ

Share:

Thứ Ba, 24 tháng 3, 2015

Vingroup chính thức nhảy vào nông nghiệp

Một thông báo vừa phát đi từ Vingroup cho biết tập đoàn này chính thức gia nhập lĩnh vực nông nghiệp, với thương hiệu VinEco. 
Nông sản của VinEco sẽ đi theo hệ thống siêu thị Vinmart và cửa hàng tiện lợi Vinmart+.
Theo đó, sứ mệnh của VinEco là "cung cấp nguồn thực phẩm sạch, an toàn vì sức khỏe của người dân Việt và các thế hệ tương lai, tiến tới việc đưa một số nông sản thế mạnh Việt Nam ra thế giới".

Công ty VinEco có số vốn điều lệ 2.000 tỷ đồng, sẽ triển khai các hoạt động nông nghiệp tại nhiều địa phương trên cả nước, trong đó, tập trung bước đầu vào lĩnh vực trồng trọt, áp dụng các công nghệ và kỹ thuật tiên tiến để cung cấp rau quả hữu cơ và rau quả sạch cho thị trường, theo các tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP.

Nguồn tin từ Vingroup cho biết, để đảm bảo chất lượng, VinEco quy hoạch các vùng sản xuất theo mô hình tập trung và khép kín. Các khâu từ nghiên cứu, công nghệ giống, sản xuất, thu hoạch, bảo quản sau thu hoạch đến chế biến, vận chuyển… sẽ được thực hiện theo quy trình khoa học, tuân thủ các tiêu chí về chất lượng và an toàn, vệ sinh thực phẩm.

Đồng thời, nhờ triển khai trên quy mô lớn và được đầu tư bài bản, VinEco có điều kiện đưa các loại máy nông nghiệp hiện đại vào quy trình sản xuất nhằm tối ưu hiệu quả và đảm bảo chất lượng nông sản. Dự kiến, công ty này sẽ làm việc với các đối tác từ các nền nông nghiệp nổi tiếng thế giới như Israel, Nhật Bản, Hà Lan… để nhận tư vấn và chuyển nhượng công nghệ, kỹ thuật, giống và thiết bị nông nghiệp.

Lao động địa phương cũng sẽ được VinEco tuyển dụng và đào tạo để phát triển một đội ngũ công nhân nông nghiệp chuyên môn cao và có khả năng ứng dụng các công nghệ trồng trọt tiên tiến nhất.

Về đầu ra, theo Vingroup, nông sản của VinEco sẽ đi theo hệ thống siêu thị Vinmart và cửa hàng tiện lợi Vinmart+ đang được “phủ sóng” toàn quốc, nhằm khép kín chu trình từ khâu gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch, vận chuyển đến bán lẻ, vừa tối ưu về giá thành vừa đảm bảo chất lượng nông sản. Tuy nhiên, công ty cũng sẽ cung cấp cho các đối tác khác.

Bên cạnh sản phẩm rau quả sạch, VinEco cũng sẽ sản xuất các sản phẩm rau quả hữu cơ; đồng thời đi sâu nghiên cứu và sản xuất một số loại nông sản thế mạnh của Việt Nam, hướng tới xuất khẩu.

Theo Vneconomy
Share:

Thứ Ba, 3 tháng 2, 2015

Tadashi Yanai luôn làm "khác người"

Cách đây hơn 10 năm, Uniqlo chỉ có xấp xỉ 100 cửa hàng và tất cả đều ở Nhật. Năm nay, chuỗi cửa hàng thời trang Nhật này dự kiến sẽ có 840 cửa hàng tại Nhật và thêm 1.170 cửa hàng ở những nước khác. Đáng chú ý là nhà bán lẻ quần áo Uniqlo, với tổng cộng khoảng 2.000 cửa hàng, đang ăn nên làm ra khi dự kiến đạt doanh số bán tới 14 tỉ USD trong năm tài chính 2014.

Tốc độ tăng trưởng nhanh chóng của Uniqlo không hề do may mắn mà là nhờ tài năng lãnh đạo của ông chủ Tadashi Yanai. Ông đã xây dựng nên đế chế Uniqlo bằng cách luôn làm “khác người” với một tầm nhìn đầy táo bạo và cải tiến.

Tôn chỉ của Yanai là “luôn mang đến những mẫu quần áo mặc thường ngày hợp mốt, chất lượng cao mà bất cứ ai cũng đều có thể mặc và có thể mặc ở bất cứ đâu tại bất cứ nơi nào với giá bán thấp nhất có thể”.

Và Uniqlo luôn tuân theo tôn chỉ này. Bất cứ ai lướt các mẫu quần áo tại một trong những cửa hàng của Uniqlo và mặc quần áo của thương hiệu này đều có thể cảm nhận được chất lượng tốt cũng như giá cả phải chăng của nó.

Để làm được điều này, Yanai đã không ngừng thúc đẩy cải tiến tại Uniqlo và sự cải tiến này có mặt ở mọi bộ phận trong Công ty từ kỹ thuật tiên tiến trong sợi vải cho đến cách thức hoạt động vô cùng tinh gọn.

Dòng sản phẩm HeatTech là một ví dụ điển hình cho thấy tính cải tiến đằng sau mọi thứ mà Uniqlo làm. HeatTech được mô tả trên website của Uniqlo là “loại vải có lợi thế cạnh tranh vì có khả năng hấp thụ nhiệt từ cơ thể tỏa ra và lưu trữ nhiệt trong các túi không khí nằm sâu trong sợi vải nhằm giúp giữ ấm cho người mặc”.

Loại vải này do Uniqlo phối hợp với một công ty khoa học về vật liệu nghiên cứu và phát triển ra. Vải của HeatTech mỏng, tạo cảm giác thoải mái cho người mặc. Chất liệu vải đặc biệt này giúp các nhà thiết kế có thể tạo ra nhiều kiểu dáng quần áo thanh lịch, khác với tiêu chuẩn thông thường của loại quần áo mặc để giữ ấm.

Công nghệ HeatTech tiếp tục được cải tiến qua thời gian với công nghệ sợi mới. Trong năm 2003, 1,5 triệu sản phẩm HeatTech đã được bán ra trên thế giới và con số này đã tăng đến hơn 130 triệu sản phẩm vào năm 2012. HeatTech chỉ là một trong số những sản phẩm mang tính đột phá của Uniqlo bên cạnh các sản phẩm khác như AIRism (một loại vải co giãn) và Lifewear (kết hợp giữa đồ thể thao và đồ mặc thường ngày).

Trong khi hầu hết các thương hiệu đều chạy theo xu hướng thời trang thì Uniqlo lại không như thế. Quan điểm của ông chủ Uniqlo là sản xuất loại quần áo phù hợp với mọi đối tượng khách hàng và có thể mặc ở bất kỳ đâu và bất kỳ nơi nào.

Không theo các xu hướng thời trang mới nhất có nghĩa là Uniqlo có thể sản xuất hàng loạt, đáp ứng các đơn đặt hàng lớn mà các đối thủ không thể làm được. Càng nhiều sản phẩm được làm ra, càng nhiều sản phẩm được đặt hàng và kết quả là giá bán trở nên rẻ hơn so với các đối thủ và nhờ thế, sức tiêu thụ cũng tốt hơn.

Giá bán mềm hơn cũng là nhờ chiến lược hoạt động của Uniqlo cho phép Công ty có được lợi thế về chi phí và độ nhanh nhạy. Cụ thể là thay vì thuê ngoài ở một số công đoạn thì Uniqlo lại có các nhóm phụ trách tất cả các khâu từ lên kế hoạch sản phẩm, thiết kế cho đến sản xuất và phân phối.

Mối quan hệ trực tiếp giữa các nhóm này với các nhà cung cấp (Uniqlo có số lượng nhà cung cấp rất ổn định) có nghĩa là số hàng đang bán ra sẽ được “chuyển” ngay thành đơn đặt hàng sản xuất.

Tại Uniqlo, không hề có chu kỳ lên kế hoạch lưu kho 6-9 tháng như những nhà sản xuất khác, mà hàng hóa được lưu kho tính theo tuần, thậm chí theo ngày. Khách hàng vì vậy có ảnh hưởng trực tiếp đến quy trình đặt hàng, vì những gì đang được sản xuất ra hoàn toàn dựa trên những gì khách hàng đang mua.

Yanai luôn đảm bảo rằng không chỉ quần áo Uniqlo phải có chất lượng cao mà dịch vụ khách hàng cũng thế. Vì vậy, các khâu từ tuyển dụng, đào tạo cho đến từng chi tiết nhỏ trong cung cách phục vụ đều được triển khai một cách tỉ mỉ.

Mọi nhân viên trong cửa hàng quần áo của Uniqlo, chẳng hạn, đều được đào tạo kỹ lưỡng và bài bản từ kỹ thuật gấp quần áo, kỹ năng trao quần áo cho khách cho đến cách nhân viên cửa hàng trả lại thẻ tín dụng cho khách hàng (theo phong cách của Nhật, cần trả lại bằng 2 tay và mắt luôn nhìn thẳng vào khách hàng). Mọi động thái, cử chỉ của nhân viên cửa hàng đều được ghi hình và đem ra phân tích.

Mỗi buổi sáng, nhân viên thực hành những gì mà họ được đào tạo về cách giao tiếp với khách hàng đến mua sắm. Các báo cáo tài chính đều minh bạch. Doanh số bán đều được thể hiện trên biểu đồ và đăng lên mỗi ngày để theo dõi tình hình bán hàng.

Không dừng lại ở đó, Yanai hiện đang xây dựng một trường đại học Uniqlo tại Tokyo và đây là nơi mà 1.500 nhà quản lý cửa hàng mới của Công ty sẽ được đào tạo mỗi năm. Mục đích của ông là nhằm mang đến chất lượng phục vụ tốt nhất cho khách hàng.

Rõ ràng, thành công của Uniqlo không thể thiếu nhà lãnh đạo có tầm nhìn xa trông rộng Tadashi Yanai. Ảnh hưởng của ông có mặt ở khắp Công ty từ các quy trình, kế hoạch, cơ cấu tổ chức và nhân sự. Ông khuyến khích văn hóa cởi mở trong Công ty; mọi nhân viên đều được tự do đưa ra ý kiến, đề xuất.

Yanai cũng là người dám đưa ra những quyết định táo bạo. Một trong những quyết định đó là yêu cầu mọi hoạt động của Uniqlo đều phải bằng tiếng Anh. Đối với một đất nước ít người dân biết nói tiếng Anh, đây là một quyết định mạo hiểm.

Nhưng ông đã thấy trước được viễn cảnh Uniqlo sẽ vươn ra toàn cầu ngay từ ban đầu. Quyết định này là một nguyên nhân lớn giúp Uniqlo nhanh chóng bành trướng ra thế giới.

Hiện tại, Uniqlo là chuỗi cửa hàng quần áo lớn thứ hai nước Nhật, nhưng tham vọng của Yanai là đưa nó đứng thứ nhất ở mọi quốc gia mà thương hiệu này có mặt.
NGÔ NGỌC CHÂU tổng hợp/NCĐT
>> Tham vọng dẫn đầu ngành thời trang của ông chủ Uniqlo
Share:

Thứ Năm, 25 tháng 12, 2014

10 cuốn sách Marketing hay nhất mọi thời đại

Tạp chí Inc. gần đây đã hệ thống hóa và giới thiệu một số đầu sách thuộc loại cẩm nang đi cùng thời đại trong nhiều lĩnh vực khác nhau như quản lý nhân viên, bán hàng, tiếp thị...rất cần cho giới doanh nhân. 
Dưới đây là mười cuốn sách về marketing, giải thích sự thay đổi mà công nghệ đã tác động lên các chiến lược và chiến thuật tiếp thị của doanh nghiệp, hay những quan sát không bao giờ lỗi thời về đặc tính của con người và hành vi của đám đông...
Share:

10 cuốn sách marketing đáng đọc nhất năm 2014

Mỗi doanh nhân nên đọc những cuốn sách đột phá để xây dựng thương hiệu cá nhân, cho sản phẩm và công ty của họ. 


Share:

Thứ Năm, 18 tháng 12, 2014

Ba hình thức quảng cáo điển hình

Theo Seth Godin, tác giả của những cuốn sách nổi tiếng về marketing, chỉ có 3 hình thức quảng cáo điển hình hay được các nhà tiếp thị sử dụng. Đó là quảng cáo tạo hành động, quảng cáo tạo niềm tin và quảng cáo tạo nhu cầu.
Share:

Đặt tên công ty: Đừng dùng các tên "quá thông minh"

Các nhà marketing khuyên rằng chúng ta hãy thử tìm kiếm một cái tên hoàn hảo cùng với hai nguyên tắc: Tên gọi phù hợp với ngành kinh doanh hay sản phẩm và cố ý làm cho người khác suy nghĩ tò mò để tìm hiểu. 

Share:

Thứ Bảy, 6 tháng 12, 2014

Mất bao lâu để khách hàng tin tưởng một thương hiệu?

Theo tạp chí Entrepreneur, trong một cuộc khảo sát thị trường mới cho biết bạn phải mất hai năm trước khi khách hàng tin tưởng thương hiệu của bạn. 
Niềm tin là thứ vô giá và cần mất nhiều năm để xây dựng và duy trì nhưng rất mong manh, có thể đổ vỡ điều kiện con người mong manh mất nhiều năm để xây dựng, nhưng có thể bị tan vỡ ngay lập tức. Nó cũng là thành phần bí mật trong việc kết nối những mối quan hệ lâu năm và sâu sắc.
Share:

Thứ Sáu, 5 tháng 12, 2014

9 nguyên tắc thành công cho thương hiệu

Đó là những nguyên tắc đã được kiểm chứng từ những thương hiệu thành công.

Share:

Thứ Năm, 4 tháng 12, 2014

5 sai lầm các chuyên viên PR cần tránh

Quan hệ công chúng (Public Relation - PR) là một phần của hoạt động marketing, giữ vai trò quan trọng trong việc xây dựng và quảng bá thương hiệu. Hình ảnh, phong cách giao tiếp cũng như nội dung phát ngôn của người làm công tác PR có tác động trực tiếp, theo hướng tốt hoặc xấu, đến uy tín thương hiệu.

Áp lực lớn nhất của một chuyên viên PR chính là dễ mắc sai lầm, vì phải làm việc với nhiều đối tượng, truyền thông nhiều dạng thông tin, đặc biệt là phải tương tác thường xuyên với báo chí... Sau đây là một số sai lầm thường gặp mà các chuyên viên PR cần lưu ý để tránh:

Share:

10 cuốn sách Marketing hay nhất mọi thời đại

Tạp chí Inc. gần đây đã hệ thống hóa và giới thiệu một số đầu sách thuộc loại cẩm nang đi cùng thời đại trong nhiều lĩnh vực khác nhau như quản lý nhân viên, bán hàng, tiếp thị...rất cần cho giới doanh nhân.
Dưới đây là mười cuốn sách về marketing, giải thích sự thay đổi mà công nghệ đã tác động lên các chiến lược và chiến thuật tiếp thị của doanh nghiệp, hay những quan sát không bao giờ lỗi thời về đặc tính của con người và hành vi của đám đông...
Share:

Thứ Tư, 3 tháng 12, 2014

Cựu CEO Ogilvy: 'Hãy nói ý kiến của mình ra. Sẽ chẳng ai đuổi việc bạn đâu'

Với Shelly Lazarus, "là chính mình" là bí quyết đầu tiên khi xây dựng thương hiệu cá nhân. 
Shelly Lazarus đã gia nhập Ogilvy trong hơn 40 năm. Khi bà bắt đầu làm cho công ty từ năm 1971, bà là một trong nhóm nhỏ những người phụ nữ tham gia vào ngành quảng cáo. 26 năm sau, sau hàng loạt chiến dịch thành công với các khách hàng lớn như IBM, Ford, American Express hay Unilever, bà trở thành Chủ tịch kiêm CEO của Ogilvy & Mather.
Share:

Thứ Hai, 1 tháng 12, 2014

Các trường Đại học xây dựng thương hiệu thế nào để lôi kéo học viên?

Trong một thế giới phẳng, các trường đại học đang cố gắng để uy tín và danh tiếng của mình vang đi càng xa càng tốt. Càng nổi tiếng, họ càng có cơ hội lôi kéo được nhiều người theo học hơn. 

Sau gần 4 thập kỷ tăng trưởng về nhu cầu đạo tạo, các trường đại học danh tiếng trên thế giới đang gặp rất nhiều vấn đề: Nhà nước cắt hỗ trợ, người theo học thì ngày càng mất niềm tin vào bằng cấp, mức độ cạnh tranh cao và phải đối mặt với sự phát triển của công nghệ.
Share:

Trang

Nổi bật

Giới siêu giàu kiếm tiền từ đâu?